Khoảng 1,8 triệu tấn chất thải nhựa tạo thách thức rất lớn cho hạ tầng thu gom, xử lý
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, về quản lý rác thải sinh hoạt, rác thải nhựa hiện nay mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 25,3 triệu tấn.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng báo cáo trước Quốc hội (Ảnh: Quang Vinh)
Ngày 28/10, Quốc hội thảo luận ở hội trường cả ngày về Báo cáo của Đoàn Giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”. Giải trình trước các vấn đề Đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, về quản lý rác thải sinh hoạt, rác thải nhựa hiện nay mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 25,3 triệu tấn. Trong đó có khoảng 1,8 triệu tấn chất thải nhựa đã tạo ra áp lực, thách thức rất lớn cho hạ tầng thu gom, phân loại và xử lý. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực song vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong công tác này.
Theo ông Trần Đức Thắng, bên cạnh nguyên nhân từ một số cơ chế, chính sách còn chậm được triển khai phải kể đến hai nguyên nhân trở ngại chính. Đó là hạ tầng kỹ thuật về thu gom, phân loại và xử lý rác thải còn thiếu, yếu và chưa đồng bộ và nguyên nhân thói quen của người dân còn chậm được thay đổi. Đây là những vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết căn bản trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng báo cáo trước Quốc hội (Ảnh: Quang Vinh)
Về ô nhiễm môi trường không khí, ông Trần Đức Thắng cho hay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến 2045. Trong đó, đã đề xuất một số giải pháp như hoàn thiện thể chế, chính sách về kiểm soát chặt chẽ các nguồn phát thải chính; về nâng cao năng lực quan trắc, kiểm kê phát thải, cảnh báo, dự báo; về chuyển đổi phương tiện giao thông xanh; về truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng và về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật.
Về phân cấp, phân quyền, phân công trách nhiệm quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường, ông Trần Đức Thắng phân trần: Từ đầu năm 2025 Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tham mưu trình Chính phủ ban hành các quy định về phân cấp, phân quyền mạnh cho địa phương, trong đó đã cắt giảm 16% thủ tục hành chính và phân cấp, phân quyền khoảng 73% thủ tục hành chính. Ngay tại kỳ họp này Chính phủ cũng đã trình Quốc hội sửa Luật Bảo vệ môi trường để tiếp tục cắt giảm đối tượng phải thực hiện thủ tục hành chính về môi trường, phân quyền cho địa phương giải quyết thủ tục hành chính về môi trường đến gần 90% các thủ tục hành chính.
Liên quan đến bảo vệ rừng tự nhiên, theo ông Trần Đức Thắng, năm 2024 tổng diện tích rừng toàn quốc của nước ta đạt 14,87 triệu hecta, trong đó rừng tự nhiên còn 10,13 triệu hecta, rừng trồng 4,47 triệu hecta. Tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc đạt 42,03%, tăng 1,15% so với năm 2015. Diện tích rừng tăng chủ yếu là do đóng cửa rừng tự nhiên từ năm 2016, không đưa vào sử dụng thương mại hàng hóa đối với các diện tích rừng tự nhiên vi phạm, phục hồi chất lượng rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, trồng mới rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên. Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tham mưu cho Chính phủ tiếp tục đóng cửa rừng tự nhiên đến năm 2030, tăng cường trồng rừng, đầu tư phục hồi rừng, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất rừng, nhất là rừng tự nhiên; xây dựng các chính sách phát triển sinh kế dưới tán rừng và nâng cao đầu tư cho công tác bảo vệ rừng, phòng, chống cháy rừng.
“Về phát triển thị trường carbon trong nước. Đến nay đã cơ bản hình thành hành lang pháp lý cần thiết để quản lý vận hành, ngay trong năm 2025 dự kiến Chính phủ sẽ ban hành 3 nghị định liên quan đến vấn đề này và sẽ tiếp tục nghiên cứu để xây dựng quy định các chính sách về thuế, phí, lệ phí liên quan đến giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; công bố các tiêu chuẩn tín chỉ carbon; phương pháp tạo tín chỉ carbon để tạo cơ sở cho các doanh nghiệp đăng ký triển khai các dự án tín chỉ carbon nội địa”, ông Trần Đức Thắng nói.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ông Trần Đức Thắng cho hay, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng nhận thức sâu sắc rằng công tác bảo vệ môi trường vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế đúng như đoàn giám sát và các vị đại biểu Quốc hội đã chỉ ra. Theo đó, tình trạng suy thoái môi trường vẫn diễn biến phức tạp, có xu hướng mở rộng ở một số khu vực. Công tác bảo vệ môi trường tuy có chuyển biến nhưng còn chậm so với kỳ vọng của nhân dân và yêu cầu của Đảng, Nhà nước.
Bên cạnh đó, ô nhiễm không khí tại các đô thị vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, ô nhiễm một số lưu vực sông chưa được giải quyết triệt để. Hạ tầng thu gom, xử lý chất thải rắn còn hạn chế, thiếu đồng bộ. Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như một số chính sách của luật chưa được phát huy hiệu quả do chưa được cụ thể hóa đầy đủ, đồng bộ; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện việc này còn chưa đáp ứng được yêu cầu; đầu tư của ngân sách nhà nước cho vấn đề môi trường còn thấp.































