Khi tăng trưởng kinh tế song hành chuyển dịch năng lượng xanh

Việc đồng thời hướng tới hai mục tiêu là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hai chữ số trong nhiều năm và đạt Net zero vào năm 2025 đòi hòi Việt Nam phải nhanh chóng mở rộng hạ tầng, gia tăng năng suất từ các nguồn năng lượng tái tạo.

Tận dụng cơ hội từ năng lượng xanh

Với việc Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ít nhất 8% năm 2025 và hướng tới mức tăng trưởng hai chữ số những năm tiếp theo, TS Nguyễn Quốc Việt, Giảng viên Trường đại học Kinh tế (ĐHQGHN), đánh giá việc chuyển dịch năng lượng bền vững là yếu tố then chốt để đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn định, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Cụ thể, lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải, hai trụ cột của nền kinh tế, ước tiêu thụ lần lượt 100 KTOE và gần 90 KTOE (nhu cầu năng lượng theo ngành) vào năm 2050 - tăng mạnh so với mức ghi nhận năm 2020, nhờ xu hướng phát triển mạng lưới logistics, mở rộng hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến và công nghiệp nặng, theo dự báo từ Viện Năng lượng.

Xe sử dụng năng lượng sạch sẽ có tem kiểm định màu xanh lá. Ảnh: Đạt Thành

Xe sử dụng năng lượng sạch sẽ có tem kiểm định màu xanh lá. Ảnh: Đạt Thành

Những dự báo này, theo ông Việt, khẳng định tầm quan trọng của việc chuyển dịch năng lượng, góp phần giảm thiểu phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu và biến động giá năng lượng, từ đó bảo vệ nền kinh tế khỏi các cú sốc năng lượng và duy trì tăng trưởng GDP ổn định.

Bên cạnh những yếu tố trên, Việt Nam cũng là điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư quốc tế, nhờ tiềm năng dồi dào của các nguồn năng lượng tái tạo và chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng sạch của Chính phủ. Tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện của Việt Nam ước sẽ lên tới 835,4 tỉ đô la Mỹ trong giai đoạn 2026-2050, trong đó nguồn điện chiếm 92,6%.

“Việc phát triển năng lượng tái tạo và cơ sở hạ tầng điện hiện đại sẽ mở ra cơ hội để Việt Nam tăng cường kết nối khu vực, mở rộng thị trường xuất khẩu điện sang các nước láng giềng như Campuchia, Singapore và Malaysia. Dự kiến, xuất khẩu điện có thể đạt tới 10.000 MW vào năm 2035, góp phần gia tăng nguồn lực tài chính cho nền kinh tế”, ông Việt kỳ vọng.

Đón đầu xu hướng, Tập đoàn T&T đã phát triển hơn 10 dự án năng lượng, với tổng công suất vận hành lũy kế (đã vận hành và đang xây dựng) đạt hơn 3.000 MW và dự kiến nâng lên khoảng 16.000-20.000 MW vào năm 2035, tập trung chủ yếu ở các dự án năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, đơn vị đã quyết định đầu tư vào sản xuất pin lưu trữ, nhằm chủ động nguồn cung cho thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu, thay vì chỉ nhập khẩu.

“T&T đang tích cực triển khai để có thể chính thức đưa nhà máy vào sản xuất vào cuối năm 2025, đầu năm 2026, với mục tiêu chiếm lĩnh 30-40% thị phần tại Việt Nam”, bà Nguyễn Thị Thanh Bình, Phó tổng giám đốc T&T nói tại diễn đàn “Công nghệ năng lượng trong kỷ nguyên mới”.

Khác với T&T, Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông chọn phát triển sản phẩm thiết bị tiết kiệm năng lượng với hiệu suất cao, như: đèn LED với mức tiết kiệm 170-190 lumen/watt, đèn năng lượng mặt trời, điện áp mái. Đồng thời, phát triển các giải pháp nhà thông minh dựa trên nền tảng IoT và AI.

“Các giải pháp này giúp tiết kiệm thêm 30-40% năng lượng mà vẫn đảm bảo cuộc sống tiện nghi cho người dùng, hiện thực hóa quan điểm tiết kiệm năng lượng, không tiết kiệm ánh sáng”, ông Nguyễn Hoàng Kiên, Phó tổng giám đốc Rạng Đông nói.

Những khó khăn cần vượt qua

Dù nhận thức việc chuyển dịch năng lượng mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế xanh và bền vững, nhưng các đơn vị triển khai thừa nhận gặp không ít khó khăn.

Thiếu vốn và tiêu chí phân loại khiến việc triển khai các dự án xanh ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Ảnh minh họa: HT

Thiếu vốn và tiêu chí phân loại khiến việc triển khai các dự án xanh ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Ảnh minh họa: HT

Với Rạng Đông, việc thị trường lao động thiếu hụt chuyên gia về lượng tái tạo và AI, khiến buộc Rạng Đông phải tự thành lập các trung tâm nghiên cứu và tăng cường hợp tác với chuyên gia bên ngoài, dẫn tới những thách thức về công nghệ.

Tương tự, T&T cũng đối mặt với thách thức lớn về nguồn nhân lực, do giai đoạn bùng nổ của lĩnh vực năng lượng tái tạo từ năm 2000, đã dẫn tới tình trạng các dự án cạnh tranh gay gắt để có được những chuyên gia có kinh nghiệm. Qua đó, tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân sự trong ngành.

Đáng lưu ý, không chỉ thiếu hụt hạ tầng về con người, sự thiếu hụt về hạ tầng vật lý - tức hạ tầng truyền tải điện, cũng khiến các doanh nghiệp chưa thực sự tự tin thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng. Trong khi đó, vấn đề tái chế pin từ xe điện và các hệ thống năng lượng mặt trời là những bài toán phức tạp trong 5-10 năm tới, đòi hỏi công nghệ cao và cần có kế hoạch xử lý từ sớm.

“Đầu tư nghiên cứu hoặc chuyển đổi sang sản xuất xanh đòi hỏi nguồn vốn dài hạn rất lớn, nhưng lãi suất vay dài hạn hiện nay rất cao, khoảng 8-12%. Do đó, doanh nghiệp rất cần những gói vay ưu đãi khoảng 3-5% để có động lực chuyển đổi, nhưng việc tiếp cận các nguồn vốn này còn nhiều vướng mắc”, ông Nguyễn Hoàng Kiên nói.

Bổ sung, TS Nguyễn Quốc Việt đánh giá một trong những thách thức lớn nhất là hệ thống lưới điện và khả năng tích hợp năng lượng tái tạo vào mạng lưới điện quốc gia. Theo đó, hệ thống truyền tải và phân phối điện hiện chưa đủ năng lực để tiếp nhận một tỷ lệ lớn các nguồn năng lượng tái tạo biến động như điện mặt trời và điện gió.

“Tình trạng tắc nghẽn đường dây truyền tải, đặc biệt tại các khu vực miền Trung và miền Nam, đang làm hạn chế khả năng hấp thụ công suất từ các dự án năng lượng tái tạo mới, dẫn đến việc phải giảm phát điện tái tạo, làm giảm hiệu quả đầu tư và ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển năng lượng xanh. Bên cạnh đó, công nghệ lưu trữ năng lượng như pin và hydro xanh vẫn còn hạn chế về quy mô và chi phí cao, gây khó khăn trong việc cân bằng cung cầu điện trong hệ thống”, ông Việt lo lắng

Bên cạnh các vấn đề trên, đại diện Rạng Đông cho rằng việc thiếu một bộ tiêu chuẩn quốc gia đầy đủ cho các sản phẩm năng lượng mới, như đèn năng lượng mặt trời, đã tạo ra một thị trường hỗn loạn. “Các sản phẩm kém chất lượng, giá rẻ có thể cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm chất lượng cao”, ông Kiên lưu ý.

Để khắc phục khó khăn, TS Nguyễn Quốc Việt khuyến nghị áp dụng các công nghệ hiện đại như Internet vạn vật (IoT), cảm biến thông minh (smart sensor) và trí tuệ nhân tạo (AI), giúp tối ưu hóa hiệu suất vận hành các nhà máy điện tái tạo và hệ thống lưới điện thông minh. Hơn nữa, cần tích hợp nền tảng dữ liệu công nghiệp, góp phần nâng cao khả năng dự báo, quản lý và điều phối nguồn điện tái tạo, giảm thiểu tổn thất và tăng tính ổn định của hệ thống điện quốc gia.

Ngoài ra, phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng (như pin và hydro xanh) là yếu tố then chốt để giải quyết tính bất ổn của nguồn năng lượng mặt trời và gió, giúp cân bằng cung cầu điện và nâng cao độ tin cậy của hệ thống điện quốc gia.

Bên cạnh công nghệ, việc hoàn thiện khung chính sách và cơ chế thị trường năng lượng là rất cần thiết để thúc đẩy chuyển dịch năng lượng. “Chính phủ cần tiếp tục cải thiện và minh bạch hóa các chính sách ưu đãi và cơ chế giá điện, chẳng hạn như cơ chế FIT (Feed-in-Tariff) và mô hình hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA). Những cơ chế này sẽ khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư và phát triển hạ tầng năng lượng sạch”, ông Việt khuyến nghị.

Vân Phong

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/khi-tang-truong-kinh-te-song-hanh-chuyen-dich-nang-luong-xanh/
Zalo