Khi sương mù, đồi thông rời xa Đà Lạt
Giữa phố núi đông đúc ồn ào, những cụ già Đà Lạt vẫn day dứt giữ lấy ký ức một thành phố mờ ảo trong sương mù, giờ chỉ còn là nỗi tiếc nuối khôn nguôi.
Buổi sáng Đà Lạt mưa bụi rả rích. Những giọt nước li ti đậu trên vai áo nhưng không mang theo hơi lạnh mơn man như ngày xưa, mà là thứ ẩm ướt hầm hập mùi khói xe và bụi công trình.
Giữa Đà Lạt ồn ào hôm nay, tìm được một người đã sống qua gần trọn thế kỷ nơi này giống như đi tìm một mạch nước ngầm dưới lớp bê tông dày đặc. Những "già làng" của thành phố hoa không còn nhiều. Tìm thấy họ đã khó, nghe được họ kể càng khó hơn, vì phải khơi lại một miền ký ức tươi đẹp nhưng nay chỉ còn như bóng dáng trong mơ, để rồi đối diện với thực tại đã thay đổi đến đau lòng.
Từng có một Đà Lạt vàng son
Chúng tôi bắt đầu hành trình từ một manh mối nhỏ. Một người bạn kể: “Ở Phường 6, có một cụ già, tên Nguyễn Hữu Tranh, 87 tuổi, nhà Đà Lạt học”.

Một góc trung tâm Đà Lạt cách đây 15 năm. (Ảnh: Phạm Anh Dũng)
Nhà cụ Tranh nép mình trên đường Hai Bà Trưng ở Phường 6, nay đã đổi tên thành phường Cam Ly. Việc tìm được nhà cụ giống như tìm một mảnh ghép cũ trong bức tranh Đà Lạt xưa, mất nhiều thời gian và kiên nhẫn.
Sức khỏe yếu, trí nhớ đôi lúc chập chờn, nhưng chỉ cần nhắc về “Đà Lạt xưa”, cụ như trẻ lại, giọng rành rọt, mắt sáng lên. Như thể nhìn xuyên qua những mái nhà san sát để tìm về một khoảng trời mờ sương đã mất.
“Đà Lạt của tôi ngày ấy”, cụ chậm rãi, “là một thành phố làng đậm phong cách Pháp. Nhà cửa không nhiều, đường xá nhỏ nhưng sạch, vỉa hè rộng, cây thông đứng thẳng tắp. Chúng tôi đi bộ, nghe gió trong thông, ngửi hương hoa dại. Mỗi sáng, mở cửa là thấy sương giăng như tấm khăn voan trắng…”. Cụ dừng lại, nhìn ngôi nhà mình đang ở nay không còn lấy nổi mái hiên, sát đường và chật chội.
Cụ kể, ngày xưa, xây nhà phải có quy hoạch đàng hoàng. Mỗi mảnh đất ít nhất 250m², chỉ được xây dựng khoảng 80m², phải có sân trước, vườn sau để trồng hoa màu và cây cảnh.
“Ở trung tâm, nhà không được xây cao quá 19 mét, không quá hai tầng để giữ cảnh quan và tầm nhìn không bị chắn. Cứ vài ba căn lại có hẻm rộng, phòng khi có hỏa hoạn xe chữa cháy còn tới lui. Từ ban công mỗi nhà, tầm mắt mở ra tới tận chân rặng thông xa, dưới làn sương mỏng, nghe rõ tiếng chim hót đầu ngày. Đà Lạt khi ấy, tinh khôi như một bức tranh được vẽ bằng tay, không một nét thừa, nhìn đâu cũng thấy trời, thấy núi”, cụ kể, như đang trở về những ngày cũ.

Cụ Nguyễn Hữu Tranh với tấm hình Đà Lạt năm 1955.
Rồi, cụ thở dài, ánh mắt như xuyên qua cả khoảng không: “Bây giờ thì… Nhà san sát, vườn mất, quy hoạch chẳng mấy ai giữ. Từng nguyên tắc để bảo vệ Đà Lạt đã bị bỏ lại phía sau”.
Như sợ chúng tôi không tin, cụ chỉ lên tấm hình cũ ghi lại một góc Đà Lạt năm 1955, được cụ phóng to treo trang trọng trong phòng khách. Trong hình, những con đường rộng rãi, thông cao, mái nhà lẩn vào cây xanh.
“So với hôm nay, đó là hai thế giới khác nhau”, cụ ngừng một lát, rồi nói nhỏ: “Muốn hiểu thêm, mấy con nên tìm cụ Thành - bạn tôi từ thời nhỏ. Ông ấy lớn lên cùng thành phố này, nhớ từng con phố, từng mùa sương”.
Nhờ lời giới thiệu ấy, chúng tôi tìm đến nhà cụ Phạm Phú Thành, 89 tuổi. Đường đến nhà cụ vòng vèo qua những khu phố mới xây, tường bê tông sát nhau đến ngột ngạt. Song ngôi nhà của cụ Thành không khó để chúng tôi nhận ra bởi còn giữ nguyên nét xưa cũ.
Dù vậy, qua năm tháng, những ngôi nhà mới mọc lên cạnh bên, không theo một nguyên tắc nào, lởm chởm. Ngôi nhà của cụ Thành vì chẳng buồn “đua”, nay lọt thỏm, phải tiếp đường bằng chiếc cổng dốc.
Bước qua cánh cổng dốc, chúng tôi như đi lạc vào một Đà Lạt khác. Là người trẻ, từng đến Đà Lạt không biết bao nhiêu lần, chúng tôi cứ ngỡ mình đã quen thuộc mọi ngóc ngách của phố núi. Nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi chạm vào một Đà Lạt xưa - không phải qua ảnh, mà bằng tất cả giác quan.
Sân trước đầy hoa, vườn sau xanh mướt rau, mùi đất ẩm quyện hương cúc vàng. Ngôi nhà mái ngói, cửa gỗ cũ quét sơn đỏ. Bên trong, ánh sáng qua ô cửa nhỏ rọi lên nền gạch hoa đã sứt mẻ, mùi gỗ và sách cũ khiến chúng tôi quên hẳn phố núi ồn ào ngoài kia.

Cụ Phạm Phú Thành với căn nhà được xây năm 1968.
Cụ Thành với chiếc áo len và đôi gang tay dày, đón chúng tôi bằng nụ cười nhưng lại đượm nét buồn. Cụ kể cho chúng tôi nghe về Đà Lạt ngày ấy, về thuở cha cụ lần đầu đặt chân đến mảnh đất này năm 1922, về từng kỷ niệm thời cụ đi học ở các trường Pháp…
Cha cụ Thành là người gốc Quảng Nam, bôn ba khắp nơi nhưng vẫn khó sống. Năm 1922, ông tìm đường lên Đà Lạt kiếm việc. Hồi ông đến, Đà Lạt chỉ thưa người Việt, số ít đó hầu hết là người đồng bào, vài người gốc Hoa, còn lại là những gia đình Pháp giàu có.
“Ngày bác sĩ Alexandre Yersin đến khánh thành trường Lyceé Yersin (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt), cha tôi có chứng kiến. Bác sĩ Alexandre Yersin cũng chính là người phát hiện Đà Lạt và nói ‘Phải làm sao tạo được nơi này thành thành phố nghỉ dưỡng cho người châu Âu’. Người xứ lạnh cần nơi mát mẻ, Đà Lạt là số 1”, cụ Thành lật lại ký ức.
Căn nhà đầu tiên của gia đình cụ ở khu Hòa Bình, Phường 1 (nay là phường Xuân Hương), đến năm 1940 thì chuyển về Phường 7 (nay là phường Lang Biang).
“Trước đây là ngôi nhà nhỏ. Năm Mậu Thân 1968, cha thôi xây ngôi nhà này, và giữ nguyên hiện trạng đến hôm nay. Chỉ có điều…”, cụ ngưng lại, rồi tiếp từng chữ, cố không để lạc giọng. “Cha tôi xây với ý định mở cửa sổ trên gác sẽ thấy 3 đỉnh núi Lang Biang. Giờ thì còn đâu nữa, nhà cửa xây chắn hết tầm nhìn. Vẫn góc đó, nhưng núi thì giờ chỉ còn trong hồi tưởng”.
Cụ kể, từ cấp 1 đến cấp 3, cụ học ở trường Pháp. Bạn bè, thầy cô đa phần là người Pháp. Đó là một thời Đà Lạt mang dáng dấp của một thị trấn châu Âu thu nhỏ: Phố xá trật tự, con người lịch thiệp, mùa nào thức nấy.
Cụ nhớ những ngày cuối tuần, học trò mặc áo len, đội mũ beret, đạp xe thong thả trên con đường dọc hồ Xuân Hương. Đôi khi, chỉ vì nhớ, cụ gọi taxi chạy quanh thành phố một vòng. Nhưng rồi mỗi chuyến đi lại là một lần hụt hẫng.

Cụ Phạm Phú Thành (thứ 4 trừ trái qua) với những người bạn học trường Pháp năm xưa.
“Không nhận ra nổi các con đường xưa. Nhà cửa thì khin khít, chen chúc quá. Hồ Xuân Hương nhỏ lại, chẳng còn mênh mang, sáng sớm cũng chẳng thấy sương mù như trước. Có lúc tôi tự hỏi, có phải mình vừa đi lạc vào một nơi khác?”, giọng cụ lẫn chút nghẹn.
"Nhắc tới Đà Lạt xưa… mắc cỡ lắm!"
Từ những mẩu chuyện của cụ Tranh và cụ Thành, chúng tôi tìm được một quán cà phê nằm sau chợ Đà Lạt. Quán nhỏ. Người ta nói, ở đây, nếu kiên nhẫn ngồi từ sáng sớm, sẽ gặp những người từng chứng kiến Đà Lạt đẹp nhất.
Chủ quán là ông Phan Anh Dũng, 62 tuổi, một nhiếp ảnh gia đã dành cả đời lưu giữ phố núi bằng ống kính. Bên trong quán, những bức ảnh sương quấn đồi thông, mặt hồ phẳng lặng, đồi Cù trả cỏ mượt, con phố lát đá vắng người… được ông đóng khung, treo tường.
Chúng tôi bất ngờ khi vài cụ già đã đến trước cả mình. Họ mặc áo ấm dày, nhưng tay lại phẩy nhẹ mảnh giấy, trán hơi lấm tấm mồ hôi. Hình ảnh này cũng dễ dàng bắt gặp bất cứ đâu trên phố phường Đà Lạt.
Chúng tôi không giấu lý do mình có mặt, nhưng khi nói xong đều bị các cụ ngó lơ. Một vài cụ có lẽ vì thương, mà cười lắc đầu an ủi. Rồi chúng tôi chợt nhật ra, chính mình đang làm không khí ở quán cà phê trở nên đặc quánh.
Buổi cà phê hôm đó chỉ thật sự được “cứu”, khi ông Dũng lên tiếng.

Nhiếp ảnh gia Phạm Anh Dũng - người lưu giữ Đà Lạt qua từng bức ảnh.
Ông Dũng chỉ tay lên những bức ảnh trên tường, và cả trong điện thoại: “Tôi chụp để lưu giữ, nhưng cũng để tự nhắc mình rằng đã từng có một Đà Lạt như thế. Giờ tìm lại trong thực tế thì… khó lắm rồi”.
Không ít người xem hình ông đăng lên mạng xã hội, rồi nói rằng đã được photoshop. Cũng phải, bởi Đà Lạt bây giờ làm gì còn sương, làm gì còn những triền thông xanh mướt.
“Họ đâu biết đó là ảnh tôi chụp từ mấy chục năm trước. Sương ấy là thật. Không khí ấy là thật. Và cũng có một sự thật, là Đà Lạt ấy đã biến mất”, ông Dũng nói, tay vuốt nhẹ một tấm ảnh cũ như sợ làm rách cả ký ức.
Với ông Dũng, Đà Lạt không chỉ là nơi sinh sống, mà còn là một “tác phẩm nghệ thuật” do con người và thiên nhiên cùng tạo ra, thứ đã bị bào mòn theo từng năm tháng.
Nay, mỗi lần bấm máy, ông phải cố gắng tránh những mảng bê tông, những mái nhà kính trắng toát đang tràn lên đồi. Nhưng tránh thì cũng chỉ là tạm thời, vì Đà Lạt thực tế đã khác xưa quá nhiều.
Ở bàn sâu trong góc, một cụ già gần trăm tuổi lặng lẽ nhấp cà phê. Ban đầu cụ lắc đầu, từ chối trò chuyện. Nhưng khi ánh mắt chạm nhau sau những lời của ông Dũng, cụ khẽ đặt ly xuống, chấp nhận kể chuyện với một yêu cầu… không hỏi tên.
“Không khó gì, nhưng thật sự là không muốn nhắc tới, bởi nhắc tới mắc cỡ lắm. Đà Lạt hôm nay còn gì nữa đâu mà kể. Kể là kể về điều hay, điều đẹp, ai lại kể về sự đi lùi”, cụ mở lời bằng sự thẳng thắn.

Một bài đăng đầy hối tiếc của ông Phạm Anh Dũng, nhận được sự đồng cảm của nhiều người.
Cụ già gần trăm tuổi không kể chuyện bằng những kỷ niệm êm đềm, mà bằng lời phán quyết thẳng thừng: Đà Lạt vốn sống nhờ rừng, và chính rừng đã bị con người cạo sạch. Rừng không còn để giữ đất, giữ nước, giữ khí hậu. Những quả đồi từng xanh mướt giờ chỉ trơ đất đỏ hoặc bị nuốt chửng bởi hàng loạt công trình.
Từ trên cao nhìn xuống, cả thành phố bị phủ kín bởi bê tông và nhà kính. Đất không còn chỗ thở. Và khi đất bị bịt kín, sương - thứ hơi nước bốc lên từ lòng đất vào sáng sớm, cũng biến mất.
Ngày xưa, đứng bất cứ đâu cũng thấy màu xanh của thông, của vườn hoa, của đồi chè. Giờ, cái màu xanh ấy bị thay bằng xám xịt của mái tôn và trắng toát của nhà kính. Những bức ảnh mộng mơ treo trong các quán cà phê giờ chẳng khác gì di ảnh của một thành phố đã mất.
Cụ nói, tất cả bắt đầu khi người ta nhìn Đà Lạt như một miếng bánh béo bở. Đồi rừng thành đất nền, thung lũng thành nhà kính, mọi mét vuông đều được quy ra tiền. Bất kể là nhà đầu tư lớn hay dân buôn nhỏ, ai cũng muốn “kiếm chỗ” trước khi quá muộn. Mỗi người một nhát cắt, một mảng lấn, rồi ghép lại thành một bức tranh tàn phá.
Cái giá phải trả không chỉ là cảnh quan mất đi, mà là sinh mạng con người. Sạt lở cuốn trôi nhà cửa, mưa lớn làm chết người, đất đá chặn đường giao thông, nhưng vòng quay phá hủy vẫn tiếp diễn. Chẳng ai dừng lại, phải chăng vì lợi nhuận quá lớn và quá dễ kiếm.
"Họ xẻ thịt Đà Lạt bán từng miếng, ai cũng muốn xẻ phần ngon nhất", cụ chua chát nói, tay chỉ về mấy ông bạn già: “Nóng đổ mồ hôi mà chúng tôi vẫn mặc áo ấm, là vì chúng tôi cố chấp, cố chấp với một thói quen đã gìn giữ cả đời người”.


Đà Lạt hôm nay - bê tông và nhà kính.
Với cụ, Đà Lạt không biến mất trong một đêm, mà chết dần từng mảng, từng khoảng rừng, từng thung lũng. Nó diễn ra chậm rãi nhưng chắc chắn, và đau đớn hơn cả là ai cũng thấy, nhưng chẳng ai chịu dừng tay.
Rời khỏi quán cà phê, chúng tôi mang theo một cảm giác khó tả. Vừa may mắn vì kịp ghi lại những lời kể quý giá, vừa xót xa vì biết rằng, khi những nhân chứng này ra đi, một phần ký ức Đà Lạt sẽ mất theo.
Trong mắt các nhân chứng, Đà Lạt đã mất đi nhiều hơn là thay đổi. Khi những “già làng” ấy không còn, ký ức về một thành phố trên cao nguyên với khí hậu ôn đới, kiến trúc hài hòa và thiên nhiên bao bọc sẽ chỉ còn nằm trong sách ảnh hoặc những câu chuyện kể dở dang.
Câu hỏi lớn nhất không phải là “làm thế nào để giữ Đà Lạt”, bởi nhiều phần của nó đã mất, mà là “làm thế nào để phần còn lại không tiếp tục bị nuốt chửng bởi bê tông, nhà kính và lợi nhuận ngắn hạn”.
Một thành phố có thể tiếp tục phát triển, nhưng khi mất đi linh hồn, nó chỉ còn là một cái tên rỗng. Và với Đà Lạt, điều đáng sợ nhất chính là khi người ta thôi tiếc nuối về nó.