Khi nhân vật văn học đi vào đời sống

Nhiều nhân vật trong các tác phẩm kinh điển đã bước ra khỏi trang sách, trở thành biểu tượng mang tính đại diện cho một số kiểu người trong xã hội, khiến nhân vật đó sống mãi.

 Nhân vật Hoạn Thư trong Truyện Kiều nổi tiếng là người hay ghen. Ảnh minh họa: Một cảnh trong phim Kiều mệnh khúc.

Nhân vật Hoạn Thư trong Truyện Kiều nổi tiếng là người hay ghen. Ảnh minh họa: Một cảnh trong phim Kiều mệnh khúc.

Đọc một số tác phẩm của những tác giả như Victor Hugo, một số nhà văn Nhật Bản, Nguyễn Tuân hoặc Nam Cao tôi thường nghĩ đến sự tuyệt cùng. Đó là cảm giác đi hết, đến tuyệt cùng của những giới hạn rất cao hoặc không còn điểm nào vượt qua được nữa.

Đọc Victor Hugo hẳn mọi người đều nhớ đến những nhân vật tuyệt cùng kinh điển của ông. Đó là thằng gù Quasimodo trong Nhà thờ Đức bà Paris, là người tù khổ sai Giăng Vangiăng, là thanh tra Giave, là cô bé Côdét trong Những người khốn khổ… Victor Hugo là nhà văn của sự tuyệt cùng, đa số các nhân vật chính của ông đều được đẩy đến những giới hạn lớn nhất có thể.

Đức hy sinh như thánh thần là của Giăng Vangiăng, kẻ miệt mài mẫn cán với việc công không biết mệt mỏi là thanh tra Giave, tận cùng xấu xí ngoại hình là thằng gù Quasimodo, trác tuyệt tri thức, tuyệt cùng đen tối là phó giám mục Claude Froll, đứa trẻ mồ côi tận cùng đau khổ là bé Côdét…

Đa số các nhân vật lớn của Victor Hugo đều là những người quá cỡ, quá khổ, quá khác biệt so với bình thường. Nhà văn có một khoái cảm với những thứ tột cùng và xây dựng tác phẩm, nhân vật của mình trên nền triết lý ấy.

Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm của sự tuyệt cùng dù Nam Cao không chủ trương xây dựng theo triết lý ấy. Chí Phèo là một kẻ lưu manh gớm ghiếc, là con quỷ đội lốt người ở làng Vũ Đại; Bá Kiến là tay cáo già lão luyện và Thị Nở là một người đàn bà tuyệt xấu. Ba nhân vật tuyệt cùng của Nam Cao tạo ra ấn tượng mạnh mẽ cho tác phẩm. Và chính ba nhân vật tuyệt cùng này đã trở thành biểu tượng của đời sống: “xấu như Thị Nở”, “lưu manh như Chí Phèo”, “lõi đời như Bá Kiến” ...

Tắt đèn của Ngô Tất Tố cũng là một tác phẩm của sự tuyệt cùng, cho độc giả thấy nhân vật lâm vào đường cùng. Chị Dậu phải bán chó, bán con để lấy tiền cứu chuộc chồng, ấy là sự tuyệt cùng của nghèo đói và khốn khổ. Nếu trong Chí Phèo của Nam Cao sự tuyệt cùng tha hóa là cảm hứng chủ đạo thì ở Tắt đèn của Ngô Tất Tố sự đói nghèo là giới hạn cực điểm. Chị Dậu trở thành một biểu tượng của đời sống: “Nghèo như chị Dậu”.

Lùi xa hơn trong lịch sử, văn học Việt Nam từng có những nhân vật tuyệt cùng đáng nhớ. Thúy Kiều là tuyệt cùng của cái đẹp, Sở Khanh là tuyệt cùng của thói trăng hoa lừa dối, Hoạn Thư là tuyệt cùng của máu ghen tuông và Từ Hải là tuyệt cùng của chất anh hùng khí khái.

Có lẽ Nguyễn Tuân là nhà văn Việt điển hình cho khoái thú của tuyệt cùng. Tác phẩm điển hình nhất cho triết lý này của ông có thể kể đến Chùa Đàn. Kẻ tuyệt đối trung thành với chủ, làm mọi thứ để người chủ vui lòng, thậm chí không tiếc cái chết là Bá Nhỡ.

Người tuyệt đối u sầu và tránh xa mọi thứ văn minh hiện đại, máy móc là Lãnh Út. Thậm chí, không khí của tác phẩm là một bối cảnh tiến dần đến sự tuyệt cùng toàn diện: Tuyệt đối trung thành, tuyệt đối đoạn tuyệt, tuyệt đối ma quái, tuyệt đối si mê...

Nguyễn Tuân còn có những tác phẩm được liệt vào hàng tuyệt kĩ nữa với triết lý tuyệt cùng rất rõ nét như Xác ngọc lam, Rượu bệnh. Xác ngọc lam là tuyệt ma quái, huyền ảo, Rượu bệnh là tuyệt say sưa lạc thú. Tôi tin rằng nếu Nguyễn Tuân tiếp nối cái mạch của sự tuyệt cùng ấy mà không chịu tác động bởi những biến cố lịch sử thì chắc chắn kho tác phẩm tuyệt cùng của ông sẽ giàu có và dữ dội hơn nữa.

Uông Triều/ Trần Lê Books & NXB Văn học

Nguồn Znews: https://znews.vn/khi-nhan-vat-van-hoc-di-vao-doi-song-post1591540.html