Khi nhà báo bước vào 'cuộc chiến' thầm lặng
Giữa đại dịch COVID-19 hay sau thảm họa bão lũ, khi hiểm nguy còn rình rập từng bước chân, có những nhà báo vẫn âm thầm nhập cuộc. Họ là nhân chứng, là cầu nối giữa nỗi đau và hy vọng, giữa tàn khốc và hồi sinh. Dấn thân không phải để được ngợi ca, mà bởi lương tâm nghề nghiệp dẫn bước.
Xông pha vào tâm dịch - lằn ranh sinh tử mong manh
Chúng ta sẽ chẳng thể quên được đại dịch COVID-19 mà đỉnh điểm giữa năm 2021, tâm dịch bùng phát mạnh ở thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Lúc đó, số ca tử vong không phải đơn lẻ mà lên đến hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn người. Mỗi lần số ca bệnh và tử vong được công bố, mỗi người lại thấy tim mình thắt lại, đó là nỗi mất mát quá lớn.
Cả nước hướng về TP.HCM ruột thịt. Tuyến đầu chống dịch không chỉ có các nhân viên y tế, quân đội, công an… mà còn có những nhà báo sẵn sàng vào vùng dịch, đưa tin nhanh nhất đến người dân. Nhớ lại thời điểm đó, nhà báo Nguyễn Trần Anh Thu, Ban Văn hóa, Xã hội và Dân tộc (VOV2) chia sẻ: “Vào buổi chiều tháng 8/2021, trưởng ban VOV2 khi đó là nhà báo Kim Trung, có đăng trên nhóm nội bộ về việc sẽ thành lập một đoàn phóng viên đi tác nghiệp ở miền Nam. Khi đọc dòng trạng thái này, tôi nghĩ đây là nhiệm vụ dành cho mình. Bởi tôi nghĩ đơn giản rằng, mình còn độc thân, nếu không đi thì ai đi. Sau đó tôi đã đề xuất với trưởng phòng để đăng ký đi, chị Hồng Quyên đã đồng ý”.

Nhà báo Nguyễn Trần Anh Thu, Ban Văn hóa, Xã hội và Dân tộc (VOV2) tác nghiệp trong vùng dịch
Quyết định đi vào vùng dịch thời điểm đó với nhà báo Anh Thu “không quá hăm hở”. Chị xem đây là một chuyến công tác bình thường, không nghĩ phía trước sẽ có nguy hiểm hay vất vả gì. Trong đầu chị chỉ nghĩ rằng các đồng nghiệp ở trong tâm dịch vẫn làm việc, thì sao bản thân mình lại sợ.
Và rồi chuyến đi vào TP.HCM bắt đầu. Đoàn di chuyển bằng ô tô từ Bắc vào Nam. Thời điểm dịch bệnh, hàng quán ven đường đóng cửa thực hiện giãn cách, nên mọi người đã chuẩn bị nào bếp gas, xoong nồi, bát đũa, bánh chưng, giò chả, các loại đồ ăn đóng hộp, đến thuốc men, khẩu trang y tế… Xe dừng ở đâu sẽ nhóm bếp thổi cơm ở đó. Vì sợ bố mẹ ở quê lo lắng, nên khi đoàn di chuyển đến Huế, chị Thu mới dám gọi điện về thông báo cho mẹ. Và chị thấy ấm lòng khi được mẹ động viên.
Khác với những trải nghiệm trong những chuyến công tác trước đây, khi đặt chân đến TP.HCM, thứ đập vào mắt nhà báo Anh Thu là “cái chết” với hình ảnh những chiếc giường phủ màu vải trắng. Lúc này chị mới ý thức được rằng, ở đây lằn răn sinh tử rất đỗi mong manh, sẽ chẳng ai nói trước được điều gì. Và trong bối cảnh đó, chị hay những nhà báo khác tác nghiệp ở vùng dịch đều sẵn sàng tâm thế sẽ là bệnh nhân tiếp theo. “Có người khi vào Khoa hồi sức tích cực (ICU) chỉ số không hề nguy kịch, nhưng chỉ vài ngày mọi thứ trở nên xấu đi, diễn biến bệnh quá nhanh, phổi trắng xóa. Tôi sợ nhìn vào những chiếc giường phủ kín màu vài trắng, tiếng tút tút từ máy monitor đo chỉ số sinh tồn, máy đo nhịp tim… cho đến giờ những hình ảnh đó vẫn khiến tôi giật mình. Cho đến khi trở về Hà Nội, đêm nào tôi cũng mơ đến căn phòng trắng cùng đèn điện không bao giờ tắt, tôi lại bồi hồi nhớ về cuộc chiến vô hình và đau thương đó”, nhà báo Anh Thu chia sẻ.
Tác nghiệp giữa vùng lũ, nhà báo không đi tìm vinh quang
Ngày 10/9/2024, một trận lũ quét kinh hoàng đã xảy ra tại thôn Làng Nủ (xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, Lào Cai). Bỗng chốc cả một ngôi làng bị xóa sổ, 60 người chết và 7 người còn mất tích. Là nhà báo tác nghiệp ở vùng lũ, anh An Kiên, phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam ở khu vực Tây Bắc, phụ trách địa bàn Lào Cai đã có mặt tại hiện trường cập nhật thông tin nhanh nhất đến khán, thính giả cả nước.
Vấn đề lớn nhất mà nhà báo An Kiên gặp phải là đường sá khó khăn, phải đi vòng, cũng như phải cẩn trọng khi di chuyển qua những vách ta-luy như những quả “bom đất” có thể sạt xuống bất kỳ lúc nào, đặc biệt không chủ quan trước những con suối nước xiết, dâng cao trong mùa lũ.
Khi tác nghiệp ở làng Nủ, anh và đồng nghiệp đã có thêm kinh nghiệm khi di chuyển qua những bãi sình lầy. “Nếu mọi người để ý sẽ thấy lực lượng tìm kiếm cứu hộ ở làng Nủ đều sẵn trong tay một cây gậy dài, nó không chỉ phục vụ tìm kiếm mà còn nhằm thăm dò độ sâu của bùn cũng như tìm các vị trí đất đã khô cứng để đặt chân. Nếu không có những cây gậy đơn sơ mà thần kì ấy, chỉ cần sa phải những chỗ bùn sâu chừng 50 - 60cm rất khó để tự rút chân lên. Làng Nủ sau lũ quét có nhiều vị trí bùn dày từ 7 - 10m”, anh Kiên chia sẻ.

Nhà báo An Kiên, phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam ở khu vực Tây Bắc, phụ trách địa bàn Lào Cai tác nghiệp ở vùng lũ
Điều kiện tác nghiệp ở làng Nủ khó khăn nhưng An Kiên cùng các đồng nghiệp đã nhận được sự giúp đỡ của địa phương và lực lượng chi viện. Từ mạng internet được ưu tiên sử dụng, chưa kể cơm hộp, nước lọc cũng được nhà hảo tâm vận chuyển tận nơi. Những hộ dân lân cận không chịu ảnh hưởng lũ cũng nhiệt tình cho mượn chỗ nghỉ ngơi.
Hơn 10 năm thường trú Tây Bắc, đây là cơn lũ quét kinh hoàng nhất mà anh từng chứng kiến. Hình ảnh làng Nủ, từ một biển bùn mênh mông, hoang tàn đến khu tái định cư khang trang; từ những tiếng khóc xé lòng đến gương mặt rũ bỏ đau thương… là những kỷ niệm mà anh sẽ chẳng thể nào quên. “Chúng tôi tác nghiệp ở làng Nủ nhiều đến mức mỗi lần quay lại hầu như đều “bị” nhận ra, tôi cũng vẫn thi thoảng gọi điện, nhắn tin hỏi thăm một số nhân vật mình chọn để đưa vào câu chuyện như mẹ con Nguyễn Thị Kim thoát chết thần kì trong lũ dữ, đến nay cánh tay phải của Kim sau nhiều lần phẫu thuật vẫn chưa thể trở lại bình thường. Hay Đặng Thị Ních - người phụ nữ mất cả chồng, mẹ chồng và 2 con - với ánh mắt lúc nào cũng nặng trĩu, không biết tới bao giờ mới ngước lên được sau những nỗi đau…”, anh An Kiên nhớ lại.
Mặc dù cuộc sống của bà con đã ổn định, nhà cửa khang trang, an toàn hơn, nhưng trong tâm trí nhà báo trẻ này vẫn còn những trăn trở về những con người đã trải qua thảm họa kinh hoàng. Và chắc chắn, anh sẽ viết tiếp câu chuyện về bà con làng Nủ, về sự “hồi sinh” thực sự trong mỗi con người nơi đây.
Có người nói rằng nhiều phóng viên đến vùng thiên tai là để “tạo dấu ấn cá nhân” chứ không phải vì sứ mệnh nghề nghiệp, thế nhưng các nhà báo “làm gì có thời gian để bận tâm những chuyện đó”. Họ cũng không muốn dùng 2 từ “sứ mệnh” bởi thấy nó cao siêu quá, nhưng trước một vấn đề cả xã hội quan tâm và trách nhiệm của người làm báo đã thôi thúc họ phải đi tìm câu trả lời cho hàng loạt vấn đề. Và khi đã bước chân đi, chẳng gì có thể cản.
Như nhà báo Hồ Quang Lợi, nguyên Phó chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, hiện nay là Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam chia sẻ, không chỉ trong thời chiến các nhà báo mới thể hiện tinh thần dấn thân, cống hiến và hy sinh, mà ngay cả trong thời bình, chúng ta vẫn cần tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần ấy. Bởi vì ngày nay, có những "cuộc chiến" thầm lặng nhưng vô cùng ác liệt mà báo chí phải đối mặt. Có thể nói, nghề báo không chỉ nguy hiểm trong chiến tranh, mà trong thời bình cũng đầy rủi ro và thử thách.
“Chúng ta đang đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, để khẳng định các giá trị cốt lõi của xã hội. Điều đó đòi hỏi các nhà báo phải tiếp tục giữ vững tinh thần dấn thân và cống hiến. Và không có gì hạnh phúc hơn đối với người làm báo, khi được dấn thân và được cống hiến cho nghề”, nhà báo Hồ Quang Lợi, nguyên Phó chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, hiện nay là Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam.