Khát vọng mới bên dòng Mã giang (Bài 1): Bên dòng chảy lịch sử - văn hóa

Không chỉ là con sông mang lại phù sa, nước ngọt, sông Mã còn chất chứa trong mình những huyền thoại, di chỉ khảo cổ, những chiến công oanh liệt, để rồi từng khúc sông, từng bãi bờ đều in đậm dấu ấn của một miền đất giàu truyền thống. Sông Mã cũng nuôi dưỡng hồn cốt xứ Thanh, từ núi Đọ, Đông Sơn đến Hàm Rồng, từ bến nước, con đò đến lời ca dân gian vẫn bền bỉ chảy trôi qua bao thế kỷ, để lại trong lòng người dân xứ Thanh niềm tự hào và khát vọng không nguôi.

Làng cổ Đông Sơn (phường Hàm Rồng) nằm bên bờ sông Mã.

Làng cổ Đông Sơn (phường Hàm Rồng) nằm bên bờ sông Mã.

Thượng nguồn ngàn mây gọi gió

Khởi sinh từ những dãy núi cao vời vợi hơn nghìn mét ở tỉnh Điện Biên, sông Mã như một dải lụa xanh rời mạch nguồn, tràn xuống miền Tây xứ Thanh. Sau hành trình uốn lượn qua đất bạn Lào, dòng sông trở về Tổ quốc tại Cửa khẩu Tén Tằn (Mường Lát), mang theo tiếng thác gầm và hơi thở hoang sơ của đại ngàn. Những ngày sương mờ phủ trắng, nhìn xuống lòng sông chỉ thấy dòng nước tung bọt trắng xóa, như đàn ngựa hoang phi nước đại giữa núi rừng.

Từ Mường Lát, sông Mã xuôi qua Quan Hóa, Bá Thước, Cẩm Thủy, dòng nước càng thêm vạm vỡ, cuộn trào không phút nào ngơi nghỉ. Rời miền đá núi, sông bỗng chậm nhịp khi đến Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, Hoằng Hóa, hiền hòa mở lòng ôm ấp những cánh đồng lúa bạt ngàn, những làng mạc trù phú hai bên bờ. Tại ngã ba Bông - điểm hợp lưu giữa Hà Trung, Hậu Lộc và Nga Sơn, sông chia đôi dòng: một nhánh là sông Lèn chảy ra cửa Lạch Sung, một nhánh khác là sông Tào (Lạch Trường) uốn ra cửa Y Bích. Nhánh chính tiếp tục xuôi về TP Thanh Hóa (cũ), luồn giữa núi Hàm Rồng và núi Châu Phong, rồi đổ ra biển Đông qua cửa Hới (Sầm Sơn), khép lại hành trình hơn 500 cây số đầy biến ảo.

Không ai biết chính xác tự bao giờ, nhưng cái tên “sông Mã” đã trở thành một phần trong ký ức của người xứ Thanh. Theo sử liệu, dòng sông này từng có nhiều tên gọi khác nhau như Lỗi Giang, Tất Mã, Lễ, Định Minh, Nguyệt Thường, Hội Thường - những cái tên phản ánh từng giai đoạn lịch sử, từng dấu ấn văn hóa của vùng đất. Song, tên gọi “sông Mã” đã tồn tại bền bỉ và được gìn giữ đến hôm nay, như chính mạch nguồn sống của con người nơi đây.

Có nhiều cách lý giải về tên gọi ấy. Cách thứ nhất, theo quan niệm của người Kinh vùng đồng bằng Thanh Hóa, chữ “Mã” là từ Hán - Việt, có nghĩa là “ngựa”. Dòng sông được gọi là “sông Mã” bởi nước chảy xiết, cuồn cuộn, mạnh mẽ như vó ngựa phi giữa núi rừng. Cách giải thích thứ hai lại gắn với sự thiêng liêng của văn hóa bản địa: “Mã” vốn đọc chệch từ “Mạ” - nghĩa là “Mẹ” trong tiếng Việt cổ. Với cư dân nông nghiệp, nước sông chính là nguồn sống, là dòng sữa mẹ nuôi dưỡng muôn loài, nên sông Mã được tôn vinh như sông Mẹ - con sông lớn nhất, bao dung và bền bỉ nhất xứ Thanh.

Ngoài ra, các tộc người Lào và Phu Thay sống ven thượng nguồn ở Hủa Phăn (Lào) gọi con sông này là “Nậm Má” - nghĩa là “dòng nước dâng cao”. Cách gọi ấy phản ánh đúng đặc tính của con sông luôn tràn đầy sức sống, dâng nước quanh năm. Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Minh Hiệu từng khẳng định: “sông Mã” - “sông Mẹ”, cái tên mang âm vang của sự sinh sôi, là biểu tượng cho tình yêu và niềm tự hào về mảnh đất Thanh Hóa kiêu hùng, nhân hậu.

Đi dọc đôi bờ, người ta dễ dàng bắt gặp những lớp trầm tích văn hóa còn hiện hữu. Ở Núi Đọ (Thiệu Hóa), công cụ đá ghè đẽo vẫn còn nằm lại trong lòng đất, kể cho hậu thế nghe về những bước chân đầu tiên của người tiền sử. Xuôi xuống Đông Sơn, những trống đồng, mũi tên, đồ gốm... lại sáng lên như tiếng vọng của nền văn hóa lẫy lừng, nơi mà cả thế giới phải ngước nhìn.

Sông Mã không chỉ bồi đắp phù sa cho đồng ruộng, mà còn bồi đắp cả nền văn minh. Dòng nước nuôi dưỡng những người nông dân cấy lúa, những nghệ nhân đúc đồng, thợ dệt, thợ gốm từ buổi bình minh của lịch sử. Chính con đường thủy mở lối giao thương, đem lại sự thịnh vượng cho cư dân đôi bờ. Có thể nói, sông Mã vừa là mái nhà, vừa là con đường, vừa là mạch nguồn để xứ Thanh tồn tại và phát triển qua ngàn năm lịch sử.

Huyền thoại bên sóng nước

Nếu như thượng nguồn sông Mã cuồn cuộn chảy qua những dãy núi ngàn năm mây phủ, thì dọc theo hành trình ấy, dòng sông còn mang trong mình cả một kho tàng huyền thoại và giá trị văn hóa - lịch sử gắn bó máu thịt với cư dân hai bên bờ.

Lễ hội Cầu ngư bơi trải - nét đẹp vùng cửa Hới.

Lễ hội Cầu ngư bơi trải - nét đẹp vùng cửa Hới.

Ở thượng nguồn Mường Lát - nơi dòng sông Mã từ đất bạn Lào trở về Việt Nam, con sông hiện ra hùng vĩ và nguyên sơ như thuở khai sinh. Giữa mênh mông núi rừng, nước sông trắng xóa bọt tung, chảy xiết qua những ghềnh đá dựng đứng, âm vang tiếng gió hòa cùng tiếng thác. Mường Lát không chỉ là nơi đón dòng sông đầu tiên chảy vào đất Việt, mà còn là điểm khởi hành của đoàn quân Tây Tiến năm xưa - những người lính mang trong tim khát vọng lên đường vì Tổ quốc.

Trên những con dốc heo hút, những bản làng chìm trong sương, họ đã bước qua sông Mã, men theo đường biên giới, để lại bao kỷ niệm khắc sâu trong thơ ca. Chính tại nơi này, câu thơ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” của Tố Hữu vang lên như tiếng gọi vọng từ quá khứ, gợi lại một thời bi tráng mà hào hùng. Dòng sông Mã đã chứng kiến, đã ôm ấp những chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi, để rồi mang theo ký ức ấy xuôi về miền hạ lưu, hòa cùng lịch sử dân tộc. Sông Mã vì thế không chỉ là chứng nhân của thiên nhiên kỳ vĩ, mà còn là dòng sông của ký ức và máu xương của một thời kháng chiến đi vào huyền thoại.

Xuôi về Cẩm Thủy, dòng Mã giang như chậm lại, len lõi giữa đôi vách đá vôi sừng sững mà hình thành nên thắng cảnh Cửa Hà - nơi được các bậc tiền nhân xem là “yết hầu” của xứ Thanh. Từ xa xưa, Nguyễn Trãi trong “Dư địa chí” và sau này Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” đều xếp Cửa Hà vào hàng danh thắng quốc gia, nơi sơn thủy giao hòa, núi sông soi bóng. Dãy núi Gấm cao hơn hai trăm mét, dựng đứng bên sông như một bức bình phong thiên tạo, quanh năm in bóng xuống mặt nước xanh biếc. Đỉnh núi trải dài nhấp nhô, hòa cùng mây trời tạo nên khung cảnh vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.

Vượt qua thác Ngốc, thác Sóng Ngàn, dòng sông Mã dần mở lòng, hiền hòa như một hồ nước lớn. Bên bờ ấy là đền Cửa Hà (Sơn Hà tự - Thung Chẹ), ngôi đền có từ thế kỷ XV, thờ các anh hùng liệt nữ từng giữ đất, thờ thần sông, thần núi, các nghĩa sĩ của nghĩa quân Lam Sơn và Thánh Mẫu Liễu Hạnh - vị Thánh linh thiêng trong tín ngưỡng dân gian Việt. Mỗi độ xuân về, người dân quanh vùng lại nô nức về đây dâng hương, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Từ núi Gấm, thác Ngốc, đền Cửa Hà, dòng Mã giang lặng lờ xuôi về biển lớn, hòa quyện lại thành một bức tranh thủy mặc sống động. Ở đó, con người như được tĩnh lòng trước vẻ đẹp sơn thủy hữu tình, để nghe tiếng sông ngân dài tựa lời nhắn nhủ của ngàn xưa còn vọng lại.

Đến Đông Sơn, bên cạnh những di vật trống đồng, mũi tên, còn có những câu chuyện kỳ bí về trống đồng nằm sâu dưới lòng sông, được người dân vớt lên trong những lần nước cạn. Mỗi hiện vật ấy như tiếng vọng từ ngàn xưa, khẳng định rằng dòng sông không chỉ nuôi dưỡng văn minh mà còn lưu giữ hồn cốt của cả một thời đại.

Từ miền trung du trù phú, sông Mã tiếp tục xuôi về phía Đông, để rồi khi chạm đến vùng đất Sầm Sơn - nơi sông hòa cùng biển lớn, một không gian văn hóa hoàn toàn khác mở ra. Ở cửa Hới, sóng nước giao hòa, phù sa ngàn năm bồi đắp nên dải đất ven biển phì nhiêu, nơi con người gắn bó với biển, với sông như gắn với chính hơi thở của mình.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Thăng Ngói, chính sự bồi tụ của phù sa sông Mã đã tạo nên vùng đất ven biển rộng lớn này. Bởi vậy, nói đến cửa Hới không thể chỉ nhắc riêng làng Hới cổ, mà còn phải kể đến Trấp (Cá Lập), Thanh Khê, Triều Dương..., mỗi làng một nghề, một lối sống, cùng hòa quyện tạo nên sắc thái riêng của văn hóa vùng cửa Hội Triều - Sầm Sơn. Những con thuyền ra khơi, những bến cá rộn ràng, những lễ hội cầu ngư đầu xuân... tất cả như bản trường ca nối tiếp giữa sông và biển, giữa lao động và tín ngưỡng...

Đi suốt chiều dài lịch sử, sông Mã chưa bao giờ chỉ là một dòng sông, ở đó là huyền thoại, là văn hóa, là ký ức, là lịch sử, là chứng nhân và cũng là nguồn sống. Chính dòng sông ấy đã hun đúc nên cốt cách kiên cường, nhân hậu của người xứ Thanh.

Và hôm nay, khi bước ra biển lớn hội nhập, sông Mã vẫn lặng lẽ chảy, mang theo phù sa, mang theo khát vọng. Như bao đời nay, dòng sông sẽ tiếp tục nuôi dưỡng hồn cốt xứ Thanh, để mỗi người dân nơi đây thêm tự hào, thêm quyết tâm dựng xây quê hương giàu đẹp, văn minh.

Bài và ảnh: Trần Hằng

Bài 2: Nguồn nuôi dưỡng văn hóa cộng đồng

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/khat-vong-moi-ben-dong-ma-giang-bai-1-ben-dong-chay-lich-su-van-hoa-265860.htm