Khẳng định vị thế văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên mới: Thương hiệu văn hóa gia tăng uy tín quốc gia
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, các quốc gia cạnh tranh không chỉ bằng kinh tế hay quân sự, mà còn bằng bản sắc và ảnh hưởng văn hóa. Thương hiệu văn hóa quốc gia chính là tấm hộ chiếu mềm giúp đất nước hiện diện và nâng tầm trên trường quốc tế.

Lễ hội Áo dài Du lịch Hà Nội 2024 với chủ đề "Hà Nội - Tinh hoa Áo dài". (Ảnh: THẾ ĐẠI)
Sở hữu nền văn hóa lâu đời, đa dạng, giàu bản sắc, Việt Nam đang đứng trước thời cơ và yêu cầu cấp thiết cần phải xây dựng một thương hiệu văn hóa đủ mạnh để cạnh tranh toàn cầu, hướng tới phát triển bền vững và khẳng định vị thế.
------------
Việt Nam sở hữu kho tàng văn hóa phong phú và độc đáo, từ các di sản được UNESCO vinh danh cho đến hệ sinh thái nghệ thuật dân gian, kiến trúc, trang phục, tín ngưỡng, văn học truyền khẩu, ẩm thực và lối sống.
Với 54 dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình chữ S, mỗi vùng miền đều góp phần tạo nên một “bảo tàng sống” đa dạng, đặc sắc: từ quan họ, ca trù, ví giặm, đến cải lương, đờn ca tài tử. Ẩm thực Việt như phở, bún chả, bánh mì... không chỉ là món ăn mà còn là câu chuyện văn hóa được bạn bè quốc tế biết đến và yêu thích.
Những giá trị thủ công truyền thống như gốm Bát Tràng, tranh Đông Hồ, lụa Vạn Phúc, mộc Kim Bồng, đá Non Nước, tơ lụa Tân Châu, gốm Mang Thít… chính là những nguyên liệu quý để định hình thương hiệu văn hóa đậm đà bản sắc Việt. Tuy nhiên, nếu không được khai thác và phát huy, tiềm năng văn hóa sẽ chỉ là “tài nguyên ngủ đông”, ít người biết đến. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi văn hóa là yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển bền vững.
Ngay từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được đặt ra. Nghị quyết số 33- NQ/TW (ngày 9/6/2014) tiếp tục nhấn mạnh xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa gắn với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, đồng thời kêu gọi cả hệ thống chính trị chung tay phát huy giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mới đây, nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng Đề án Quốc tế hóa văn hóa Việt Nam và Việt Nam hóa văn hóa quốc tế, thiết thực cụ thể hóa Nghị quyết số 59 trong lĩnh vực văn hóa. Theo đó tư duy văn hóa được tiếp cận như một chiến lược mềm toàn diện, kết nối đồng bộ giữa các yếu tố: văn hóa-ngoại giao-kinh tế-truyền thông-du lịch-sáng tạo.

Không chỉ giới thiệu Việt Nam ra thế giới, Đề án còn định hướng: chủ động hấp thụ tinh hoa văn hóa thế giới theo tinh thần “Việt Nam hóa văn hóa quốc tế” - nghĩa là tiếp biến có chọn lọc, không hòa tan, tạo nên giá trị kép của hội nhập văn hóa trong thời đại số. Trên cơ sở đó, hướng đến xây dựng thương hiệu văn hóa Việt Nam đủ sức lan tỏa ra thế giới. Việc xây dựng thương hiệu văn hóa Việt Nam có tính cạnh tranh toàn cầu vừa là khát vọng, đồng thời cũng là đòi hỏi tất yếu trong bối cảnh thế giới đang thay đổi sâu sắc.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Từ Thị Loan, trong công cuộc xây dựng thương hiệu quốc gia, ngành văn hóa đóng vai trò then chốt, bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước. Giáo sư, Tiến sĩ Từ Thị Loan phân tích: Nhân tố văn hóa sẽ góp phần thúc đẩy và phát triển các sản phẩm đại diện cho thương hiệu Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa và vươn ra thế giới.
Trong “” do Brand Finance công bố hằng năm, những quốc gia có chỉ số thương hiệu văn hóa cao đều có lợi thế rõ rệt về “sức hút mềm”, tạo ra những dòng chảy đầu tư và thiện cảm toàn cầu. Bởi một thương hiệu văn hóa không chỉ gia tăng uy tín quốc gia mà còn khơi dậy niềm tự hào dân tộc, làm giàu bản sắc trong quá trình hội nhập, đồng thời thúc đẩy ngoại giao công chúng, xây dựng lòng tin và sự thấu hiểu giữa các dân tộc. Đáng mừng là theo báo cáo năm 2023 của Brand Finance, giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam tăng 102% trong giai đoạn 2019-2023, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trong đó văn hóa đóng vai trò quan trọng. Từ đây minh chứng rằng văn hóa đã dần trở thành nền tảng của tăng trưởng, là nguồn lực để phát triển công nghiệp sáng tạo, xuất khẩu văn hóa và khơi dậy nội lực dân tộc.
Nhìn ra thế giới, không khó để nhận diện thành công của những quốc gia đã định hình thương hiệu văn hóa đặc trưng: Hàn Quốc với làn sóng Hallyu đã biến K-pop, phim ảnh, ẩm thực và thời trang thành hiện tượng toàn cầu, góp phần giúp quốc gia này vươn lên nhóm 10 thương hiệu quốc gia hàng đầu thế giới. Nhật Bản không chỉ nổi tiếng với công nghệ mà còn với anime, trà đạo, văn hóa Zen - tạo nên một hình ảnh “Cool Japan” được chính phủ xây dựng chiến lược đầu tư quảng bá bài bản. Singapore kết hợp văn hóa đa dạng với công nghệ, xây dựng thương hiệu quốc gia hiện đại, thu hút đầu tư và du lịch. Những thí dụ trên đây cho thấy thương hiệu văn hóa cần phải được hoạch định như một chiến lược lâu dài, nhất quán và có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa Nhà nước-doanh nghiệp-người dân-giới sáng tạo.
Với Việt Nam, bên cạnh các hoạt động quảng bá truyền thống như tổ chức Tuần văn hóa Việt Nam tại nước ngoài, các sự kiện văn hóa nghệ thuật có yếu tố quốc tế như Festival Huế, Lễ hội Áo dài, Liên hoan Nghệ thuật dân gian, các triển lãm tranh, ẩm thực, Liên hoan phim quốc tế Hà Nội,... cũng đã góp phần xây dựng hình ảnh tích cực về đất nước và con người Việt Nam. Việc ngày càng có nhiều nghệ sĩ Việt xuất hiện trên các nền tảng toàn cầu, phim Việt đoạt giải quốc tế, liên tiếp được truyền thông quốc tế vinh danh… là những tín hiệu lạc quan cho công cuộc nâng tầm giá trị ảnh hưởng của văn hóa quốc gia đến với bạn bè năm châu.
Tuy nhiên, đánh giá toàn diện, cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng các hoạt động này còn thiếu liên kết chiến lược, chưa hình thành được một “bản sắc thương hiệu văn hóa” rõ nét. Nguyên nhân đến từ nhiều yếu tố: thứ nhất, nguồn lực tài chính và nhân sự cho ngành công nghiệp văn hóa còn hạn chế, khiến việc đầu tư vào các dự án quảng bá quy mô lớn hoặc phát triển sản phẩm văn hóa cạnh tranh quốc tế gặp khó khăn.
Thứ hai, cơ chế, chính sách chưa đủ linh hoạt để khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp sáng tạo, dẫn đến việc khai thác di sản văn hóa thường mang tính tự phát, thiếu định hướng dài hạn.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam còn yếu so với các quốc gia như Hàn Quốc hay Nhật Bản. Vai trò của khu vực tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp sáng tạo, còn chưa được khuyến khích đủ mạnh. Việc khai thác giá trị di sản để tạo ra sản phẩm văn hóa-du lịch-xuất khẩu vẫn còn nặng tính tự phát, thiếu chiều sâu chiến lược và tính thị trường.
Muốn thương hiệu văn hóa Việt Nam vươn xa rất cần một cách tiếp cận tổng thể và bài bản. Trước hết, phải coi văn hóa như một trụ cột phát triển quốc gia, gắn với chính sách phát triển kinh tế, giáo dục, ngoại giao, công nghệ. Cần có chiến lược dài hạn với mục tiêu rõ ràng: định vị hình ảnh Việt Nam là một quốc gia giàu bản sắc, cởi mở, năng động và sáng tạo. Cùng với đó, phải đầu tư cho việc nghiên cứu, lựa chọn các biểu tượng văn hóa có khả năng đại diện cao như di sản UNESCO, nghệ thuật truyền thống, văn học dân gian, ẩm thực, thời trang,... để phát triển thành “sản phẩm văn hóa quốc gia” có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Đặc biệt, cần khơi thông dòng chảy sáng tạo trong xã hội, khuyến khích doanh nghiệp văn hóa, nghệ sĩ, nhà sáng tạo nội dung, nhà làm phim, nhà thiết kế… tham gia kiến tạo hình ảnh quốc gia. Nhà nước nên đóng vai trò kiến tạo môi trường và dẫn dắt chính sách, trong khi tư nhân và cộng đồng đóng vai trò là lực lượng triển khai.
Ông Trần Thế Thuận, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: Quá trình giữ gìn bản sắc Việt trong hội nhập toàn diện cũng như nói đến “cho” và “nhận”. Giải pháp cần được ưu tiên hàng đầu hiện nay là thể chế chính sách, các yếu tố về quy định pháp luật nhằm tạo động lực cho sự phát triển của lĩnh vực văn hóa nói chung và ngoại giao văn hóa.
Việc đưa ra thế giới không thể thiếu sự hậu thuẫn của truyền thông, công nghệ và các nền tảng số. Song song đó, cần thấy rằng, việc Việt Nam hóa văn hóa quốc tế cũng là quá trình chủ động tiếp nhận có chọn lọc những giá trị phổ quát từ thế giới, làm giàu thêm cho bản sắc Việt, đồng thời định hình thương hiệu với “giao diện hiện đại” cho văn hóa truyền thống, bảo đảm sự hài hòa giữa bảo tồn và đổi mới, giữa truyền thống và sáng tạo, giữa bản địa và toàn cầu.
Trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế” Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Về văn hóa, hội nhập nhưng phải gắn với bảo tồn, phát huy và quảng bá văn hóa dân tộc; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp nội dung, các sản phẩm, thương hiệu văn hóa có chất lượng và năng lực cạnh tranh toàn cầu”. Xây dựng thương hiệu văn hóa Việt Nam có sức cạnh tranh toàn cầu là một hành trình dài hơi, không dễ dàng, nhưng đầy triển vọng và mang đến nhiều cảm hứng. Đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành văn hóa, mà là chiến lược quốc gia, là khát vọng chung của cả dân tộc.
(Còn nữa)