Khám phá, trải nghiệm làng gốm Thanh Hà 500 tuổi ở Hội An
Ngôi làng nhỏ bên sông vỏn vẹn chỉ 1,2km2, ấy mà mỗi ngày đón hàng ngàn lượt du khách quốc tế. Chuyện thú vị là người làng được nhận lương hàng tháng như công chức nhà nước. Đó là câu chuyện ở làng gốm Thanh Hà, phường Hội An Tây, Thành phố Đà Nẵng.
Làng gốm nổi tiếng xứ Đàng Trong
Sau 5 trận lũ lụt kinh khủng, từ tường rào đến đường sá, cây lá của làng gốm Thanh Hà nhuộm một màu vàng của bùn non, bụi bay mù trời, bám vào mắt cay xè.
Bụi là vậy, nhưng ngồi trước Công viên đất nung, nghệ nhân Lê Trọng, một nghệ nhân kỳ cựu của làng gốm vừa tròn 95 tuổi, vẫn nở nụ cười mãn nguyện. Ông chỉ tay xuống đường lót gạch đỏ tươi bị mòn loáng bởi chân khách du lịch, bảo: “Mi thấy không, khách đi mòn đường tề”.
Hằng ngày, nghệ nhân Lê Trọng hay soi mặt xuống dòng sông Thu Bồn bên cái lò nung gốm cũ của nhà mình, nơi từng con thuyền chở đất sét đến, tất tả những con thuyền đến chở gạch ngói và gốm đi tứ phương. Trong tâm tưởng của ông đau đáu về nghề gốm. Ông là nghệ nhân làng gốm đi qua 2 thời chiến tranh, chứng kiến làng đi qua bao trận bão lụt kinh hoàng, cũng là người thấu tận sự bấp bênh, chìm nổi, thay đổi của làng gốm 500 tuổi này.

Những em nhỏ trong làng gốm Thanh Hà hướng dẫn du khách cách làm gốm
Làng gốm Thanh Hà một thời nổi tiếng ở xứ Đàng Trong. Theo người làng, thuở Chúa Nguyễn cai trị, thương cảng Hội An tấp nập thương thuyền từ châu Âu, châu Á về cập cảng giao thương mua bán, trao đổi hàng hóa. Đây cũng là lúc phồn thịnh nhất của làng. Các bô lão của làng chia sẻ, thời Chúa Nguyễn, cảng thị Hội An nhộn nhịp, làng gốm Thanh Hà trở thành nơi giàu có nhất nhì của vùng. Tất cả nhờ sản xuất gạch ngói xây dựng phố (phố cổ ngày nay). Ngoài ra còn xuất gốm men (cao cấp) đi các nước. “Trước đây, làng gốm Thanh Hà đa dạng gốm, và có 3 loại gốm chủ lực: gốm đỏ, gốm sành và gốm men. Nhưng sau này gốm men và gốm sành không còn sản xuất nữa, chỉ còn gốm đỏ”, nhà nghiên cứu văn hóa Hội An Phùng Tấn Đông cho biết.
Trong ký ức của những người thế hệ 7X, làng chỉ còn những lò nung bằng than đá và củi. Khói ngút trời, nồng nặc, cả làng chìm trong ô nhiễm khói. Các sản phẩm chủ yếu là gạch, ngói âm dương, nồi đất, đồng binh… Tuy vậy, thu nhập thấp, cuộc sống người dân làng gốm bấp bênh, chao nghiêng như chiếc thuyền lắc theo sóng ngoài sông.

Gốm vừa ra lò
Để phát triển và bảo tồn làng gốm cổ này, cách đây 15 năm, chính quyền Thành phố Hội An cũ vận động người dân không dùng lò nung bằng nhiên liệu than đá và củi. Khi dập tắt nạn ô nhiễm, Hội An đưa làng trở thành điểm du lịch thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Liếc nhìn ông Hai bảo vệ làng gốm, người đã ngoài 60 tuổi rồi mà nói tiếng Anh, Tiếng Trung, Tiếng Hàn với khách lưu loát. “Trước đây, chưa có du lịch, ngoại ngữ một chữ bẻ đôi cũng không biết. Làm nghề gạch ngói cực lắm, làm giỏi lắm cũng chỉ vừa đủ ăn. Bây chừ làm du lịch, tiếp xúc miết với khách thì mình nhanh hiểu tiếng họ nói, vừa làm vừa chơi nhàn nhã nhưng sống thư thả. Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai, rứa đó”, ông Hai bật cười mãn nguyện.
Cái cực, cái khổ của nghề gốm đeo đẳng theo người làng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gốm như máu thịt, như cơm bữa của người làng. Nhưng càng níu với nghề càng khổ cực, càng nghèo.

Nhà điêu khắc Trọng Văn sáng tác gốm tại làng gốm Thanh Hà
Để thoát cảnh nghèo khổ, những người làng thế hệ 8X, 9X lớn lên bám theo chữ nghĩa, đưa trình độ học vấn cao hơn để làm công việc khác nhằm thoát ly đi nơi khác, thoát nghề gốm và thoát nghèo. Nhưng trọng họ, làng gốm đã ăn đậm vào tâm trí, máu thịt, không thể nào quên được. Nhiều người sau thời gian bôn ba phiêu dạt đất người, công thành danh toại rồi vẫn quay về làng. Mỗi người con trở về mang theo một cái mới cho làng: Người mang theo một sảng phẩm mới, người nghiên cứu về lịch sử làng, người mang màu gốm mới, người bảo tồn gốm, người phục dựng nghề thất truyền… Tất cả hòa quyện, tạo thêm sinh động đa dạng cho làng gốm.
Thấy tôi ngắm nghía Công viên đất nung, bà Năm - người làng gốm Thanh Hà - bắt chuyện: “Công viên đất nung này là của thằng Nguyên. Hắn là người làng ni, học xong, hắn ở lại Sài Gòn làm việc. Chừ hắn về đầu tư cái ni để thành điểm đến của khách thập phương”.
Công viên đất nung đã làm nổi bật làng gốm và trở thành công viên gốm lớn nhất Việt Nam, nơi trưng bày tất cả dòng gốm ở Việt Nam, kể cả các tác phẩm nghệ thuật bằng gốm. Khi vừa hoàn thành, năm 2016, kiến trúc Công viên đất nung đạt danh hiệu Ashui Award; Năm 2017 đạt giải kiến trúc quốc gia. “Trở về làng là mong ước từ thời sinh viên, bởi hình ảnh người bà, người mẹ chăm chút bên chiếc bàn xoay gốm như ám ảnh. Nên khi thiết kế Công viên đất nung, tôi cũng lấy ý tưởng từ chiếc bàn xoay gốm”, kiến trúc sư Nguyễn Văn Nguyên tâm sự.

Một góc Công viên đất nung
Đến nay, Công viên đất nung không chỉ là điểm trưng bày các sản phẩm gốm Việt, là điểm đến của du khách, mà đã trở thành điểm vui chơi trải nghiệm cho thiếu nhi, học sinh cấp 1 các nơi đến sáng tạo hội họa, làm gốm, là điểm sáng tác của giới nghệ sĩ - từ hội họa, điêu khắc trong và ngoài nước đến sáng tác nghệ thuật.
Còn nghệ nhân Sang - cháu ruột của cố nghệ nhân Nguyễn Thị Được - từ lời kể mơ hồ của các cựu bô lão trong làng đã đi tìm lại vết tích men cũ gia truyền nổi tiếng của làng khiến nhiều nước trên thế giới mê mẩn, thán phục, nay bị thất truyền. Nhiều năm mày mò tìm kiếm tài liệu, nghệ nhân Sang lặn lội ra kinh thành Huế xem lại từng mảnh ngói men, miếng gạch men trong đại điện cung vua, thậm chí đến những đài điện nổi tiếng ở Nhật Bản để tìm lại dấu tích men của tổ tiên bị thất truyền.
Anh Sang chia sẻ: “Thời xưa, ông bà bà tổ tiên đã sản xuất ra được chất men rất độc đáo mà chỉ làng gốm Thanh Hà mới có. Bởi thế mà cả hoàng cung ở Huế, hay các nơi bên Nhật đã chọn gốm Thanh Hà để trang trí những điểm sang trọng. Đến chừ thì thất truyền, không biết do lũ lụt hay chiến tranh làm mất và xóa hết tài liệu nghề men gia truyền của làng. Ngày xưa, men ông bà làm rất bóng và sáng, chống cả bụi bám, để ngoài trời mưa nắng lâu năm không bị phai màu. Bây giờ, tuy bước đầu đã tìm lại chất men nhưng chưa được như ý, mới chỉ bằng nửa của ông bà xưa thôi, bởi công thức chưa đúng”.

Làng gốm Thanh Hà trở thành điểm du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước
Nhìn dãy “di sản văn hóa thế giới” đồ sộ được mô phỏng bằng gốm, anh Lê Chữ - Việt kiều Ý - ngạc nhiên bởi chất nghệ thuật rất độc đáo. “Không biết nghệ nhân nào mà tài hoa đến vậy, tạo nên những tác phẩm rất đẹp và giống như thật. Mọi thứ làm bằng đất sét đã khó, khi nung lại càng khó vì độ nóng co giãn, méo mó dễ hư hỏng. Vậy mà nghệ nhân làm ra chi tiết giống đến 90%. Thật là tuyệt vời”, anh Chữ trầm trồ.
Tất cả là do anh Lê Quốc Tuấn, con trai của nghệ nhân Lê Trọng, chế tác. Anh Tuấn ban đầu làm kỹ thuật cho đài truyền hình, rồi về quê bén duyên lại với nghề gốm. Nhờ kỹ thuật cao và sự sáng tạo nên hầu hết các khu resort nghỉ dưỡng cao cấp tại miền Trung đều tìm đến anh đặt hàng để decor trang trí. Lê Quốc Tuấn cũng là người đầu tiên ở làng gốm được những đối tác tại Nhật Bản đặt hàng xuất khẩu gốm nghệ thuật.
Nay làng gốm Thanh Hà mỗi ngày đón vài ngàn lượt du khách trong và ngoài nước, chủ yếu là khách quốc tế. Lượng khách du lịch đến khám phá, trải nghiệm làng gốm 500 tuổi mỗi ngày đông hơn dân số của làng. Từ khi làng gốm trở thành điểm du lịch, làng trở nên sạch sẽ, người làng từ người thợ quanh năm suốt tháng lam lũ cơ cực với bùn đất bỗng chốc trở thành nghệ nhân, hướng dẫn viên du lịch của làng, nói được nhiều thứ tiếng, rồi nhận lương hàng tháng trích từ tiền vé tham quan làng nghề như công chức nhà nước. Du khách đến làng đều ngạc nhiên bởi những thứ mới lạ làm từ đất rất tinh xảo, độc đáo chỉ có ở làng gốm cổ nhỏ này. Như lời anh Nguyên từng tâm sự: “Chỉ có gốm mới độc đáo, bởi nó kết tinh từ đất, nước, lửa và bàn tay, trí óc, hơi thở con người hòa quyện lại tạo nên tác phẩm”.

































