Khai phóng nguồn lực, sức mạnh nội sinh
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng 8,3 - 8,5% trong năm 2025 và ở mức hai con số vào những năm tiếp theo, kinh tế tư nhân là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế đất nước; là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân là đột phá để kích hoạt tính tiên phong, sáng tạo của khu vực này trong tạo việc làm, đóng góp vào tăng trưởng, sẵn sàng đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất mới, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó, nghị quyết cũng nhấn mạnh, cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách, mang tính chiến lược, lâu dài.
Thế nhưng cũng phải thẳng thắn rằng kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Cụ thể, hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế. Năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao. Tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập. Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, nhất là về vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận, chi phí kinh doanh còn cao.
Phân tích rõ hơn, một chuyên gia dẫn chứng, năng suất lao động khu vực ngoài nhà nước, bao gồm cả khu vực tư nhân không chỉ thấp hơn nhiều so với các khu vực khác mà tốc độ tăng trưởng cũng thấp hơn. Theo đó, năng suất lao động chỉ bằng 34% khu vực Nhà nước và khoảng 69% so với khu vực FDI. Năng lực khoa học - công nghệ cũng yếu, tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 12,1%; thu nhập của người lao động chỉ bằng 57% so với khu vực Nhà nước và 80,5% so với khu vực FDI. Lợi nhuận bình quân trước thuế của một doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 0,52% của doanh nghiệp Nhà nước và gần 3,1% của doanh nghiệp FDI.
Đặc biệt, bên cạnh 1 triệu doanh nghiệp, còn có 5 triệu hộ kinh doanh cá thể chưa chuyển đổi thành doanh nghiệp bởi nhiều lý do trong đó có tâm lý “không muốn lớn”, “không chịu lớn” bởi lo ngại, e dè về những ràng buộc của các quy định, thủ tục khi chuyển đổi cũng như trong quá trình hoạt động.
Với những tồn tại, hạn chế này, để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số và các mục tiêu mà Nghị quyết 68 đã đề ra như đến năm 2030 phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55 - 58% GDP, khoảng 35 - 40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84 - 85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5 - 9,5%/năm… - có rất nhiều việc phải làm, trong đó quan trọng nhất là cần có cơ chế, chính sách vĩ mô phù hợp, ổn định lâu dài để khai phóng nguồn lực, sức mạnh nội sinh, đồng thời tạo nền móng cho khu vực kinh tế tư nhân bứt phá.