Khai phá nguồn lực tăng trưởng mới cho kinh tế Việt Nam

Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), với thành quả là nhiều sản phẩm số và thiết bị tự động đã mở ra cơ hội vươn mình cho kinh tế Việt Nam. Nhưng để hiện thực hóa mục tiêu, cần hành động thống nhất, đồng bộ từ các bộ, ngành, Nhà nước và doanh nghiệp.

Khó tăng trưởng hai chữ số với mô hình truyền thống

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 của Việt Nam là 6,7% vào tháng 9-2025, cao hơn 0,1% so với dự báo vào tháng 4 cùng năm. Ngân hàng UOB của Singapore dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 của Việt Nam ở mức 7,5% vào tháng 9-2025, cao hơn 0,6% so với dự báo trước đó, do nền kinh tế vẫn được hỗ trợ bởi xuất khẩu.

Còn Ban Chính sách, chiến lược Trung ương dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 của Việt Nam ở mức 8,1% tại kịch bản cơ sở và 9% tại kịch bản cao, với nền tảng là các điều kiện vĩ mô diễn biến khả quan.

Không ít doanh nghiệp Việt Nam đã cơ bản làm chủ một số công nghệ cao như Misa, với sản phẩm robot có khả năng tương tác vật lý, nhảy, làm thơ, viết tin ngắn và giải đáp một số câu hỏi của người dùng trong thời gian ngắn. Ảnh: H.T

Không ít doanh nghiệp Việt Nam đã cơ bản làm chủ một số công nghệ cao như Misa, với sản phẩm robot có khả năng tương tác vật lý, nhảy, làm thơ, viết tin ngắn và giải đáp một số câu hỏi của người dùng trong thời gian ngắn. Ảnh: H.T

Với giai đoạn 2026-2030, dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIV đặt mục tiêu tăng trưởng bình quân mỗi năm trên 10%. Điều này, theo ông Nguyễn Đức Hiển - Phó trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, là một thách thức lớn, nếu Việt Nam không thay đổi mô hình tăng trưởng và có những động lực tăng trưởng mới.

Dẫn chứng, vị này cho biết tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam có kết nối tham gia chuỗi giá trị toàn cầu chỉ khoảng 18%, giảm 17 điểm phần trăm so với năm 2009 và chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp lớn.

Giá trị đóng góp của doanh nghiệp nội địa vào hàng hóa xuất khẩu ở mức thấp với hầu hết nhóm hàng hóa. Chỉ có điện tử, máy vi tính đóng góp khoảng 28%, dệt may đóng góp 36,3%, da giày đóng góp 34% và gỗ đóng góp khoảng 53,4%.

Đáng lo ngại, năng lực sản xuất của nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ mới đáp ứng khoảng 10-15% nhu cầu trong nước. Hơn nữa, hầu hết những nhóm ngành thuộc ngành công nghiệp chế biến chế tạo, dù có chỉ số lan tỏa và độ nhạy cao, nhưng kích thích đến nhập khẩu và lan tỏa đến giá trị tăng thêm thấp hơn mức bình quân chung.

“Điều này phản ánh cơ bản nhiều ngành nghề dừng ở mức gia công. Còn doanh nghiệp nội địa mới tham gia các khâu trung gian và khi đối chiếu còn thấp hơn nhiều quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ”, ông Hiển nói tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025 ngày 2-10.

Với mô hình tăng trưởng kinh tế theo kết cấu truyền thống (phụ thuộc vào xuất khẩu và FDI -PV), vị này lo ngại Việt Nam sẽ chịu rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các quốc gia. Bên cạnh đó, là nguy cơ ‘bị bỏ lại phía sau’ nếu chiến lược bắt nhịp công nghệ không thành công.

Chung nỗi lo, GS.TS Hoàng Văn Cường, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, cho biết dù xuất khẩu nhiều, nhưng phần lớn giá trị Việt Nam thu được lại trả cho giá trị nhập khẩu phụ tùng, nguyên vật liệu và phần lợi nhuận được nhà đầu tư chuyển về nước chủ nhà. Như vậy, phần giá trị để lại trong nước rất thấp.

Thậm chí, điện thoại, máy tính, điện tử - một ngành có tỉ lệ đóng góp tương đối cao từ doanh nghiệp nội địa, thì trên 70% giá trị sản phẩm vẫn phải trả cho nước ngoài.

“Các hoạt động gia công, lắp ráp, là những khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị, vì nằm ở ‘đáy của đường cong nụ cười’. Đây là nguyên nhân căn bản khiến năng suất lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới. Nên có tăng cường lao động, thì phần giá trị tăng thêm chúng ta nhận được không đáng kể”, ông Cường phân tích.

Còn ông Johnathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch Tập đoàn Liên Thái Bình Dương (IPPG), thừa nhận doanh nghiệp Việt Nam đang đối mặt với một số vấn đề điển hình, gồm: hạn chế về vốn, công nghệ, quản trị; thiếu nhân lực chất lượng cao; chưa thật sự có chính sách đồng bộ để hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp rất cần sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo môi trường thuận lợi từ Đảng và Chính phủ.

“Cơ chế chính sách minh bạch, ổn định và nhất quán. Cùng cải cách thể chế thực chất, hướng tới giảm thiểu rào cản, là nền tảng quan trọng để doanh nhân tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, cùng nhau xây dựng nền kinh tế lớn mạnh và tự chủ”, ông Johnathan Hạnh Nguyễn nhấn mạnh.

Khơi thông nguồn lực tăng trưởng mới

Dẫn chứng trường hợp Ấn Độ - từ một quốc gia gia công vươn lên thành cường quốc công nghệ thông tin, ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC Group, cho rằng điều quan trọng nhất là doanh nghiệp phải nắm bắt cơ hội chuyển đổi từ “người làm thuê” thành “người làm chủ”, nhất là trong bối cảnh Đảng đã ban hành “bộ lục nghị quyết”, gồm: 57, 59, 66, 68, 71, 72. Hơn nữa, Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới về gia công, xuất khẩu phần mềm - khẳng định nước ta có nền tảng, tiềm năng lớn trong lĩnh vực công nghệ.

Theo đại diện CMC, trong quá trình phát triển, giá trị gia tăng sẽ nằm ở tri thức, thương hiệu và sáng tạo - là yếu tố phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu, nhất là thương hiệu sản phẩm. Ngoài ra, cần bỏ tư duy “đo lường giá trị gia tăng của ngành, lĩnh vực qua tỷ lệ nhập khẩu” khi đo lường giá trị của các ngành kinh tế số.

“Trung Quốc đã rút ngắn đáng kể giai đoạn gia công, đi thẳng vào phát triển sản phẩm và xây dựng thương hiệu toàn cầu. Việt Nam cũng cần hướng tới làm chủ công nghệ, tạo ra sản phẩm trí tuệ và xây dựng thương hiệu tầm quốc tế, thay vì quen với vai trò người làm thuê”, ông Chính khuyến nghị.

Yêu cầu ngày càng cao từ khách hàng buộc các ngân hàng phải không ngừng nâng cấp công nghệ. Ảnh minh họa: H.T

Yêu cầu ngày càng cao từ khách hàng buộc các ngân hàng phải không ngừng nâng cấp công nghệ. Ảnh minh họa: H.T

Bổ sung, ông Hoàng Văn Cường nhấn mạnh trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ số, hay thiết bị tự động là những lĩnh vực, mà tất cả các quốc gia đều có điểm xuất phát ngang nhau. Như vậy, khi làm chủ chuỗi giá trị trong những lĩnh vực này, Việc Nam sẽ là "người chủ" của các sản phẩm và công nghệ mới, qua đó trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

“Vấn đề mấu chốt để bước vào con đường này là phải dựa vào nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo để hình thành những con đường phát triển mới ,mang tính đột phá và đi đầu về các sản phẩm mới. Đồng thời, phải đầu tư xây dựng thương hiệu, xúc tiến thị trường để liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu” ông Cường nói.

Cũng theo ông Cường, để thực hiện hai con đường trên, trước hết cần phải giải quyết ba yếu tố cốt lõi, gồm: vốn để tăng cường năng lực; làm chủ công nghệ để nắm giữ các khâu cốt yếu; liên kết hình thành chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, phải có vai trò của Nhà nước thông qua các chính sách bảo hộ, đặt hàng và định hướng chiến lược.

Trong bối cảnh các chính sách về kinh tế số đang dần hoàn thiện, ông Mã Tuấn Trọng, Giám đốc điều hành Grab Việt Nam, cho rằng doanh nghiệp nên chủ động hợp tác đa phương - không chỉ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, mà còn giữa doanh nghiệp với Nhà nước, hướng tới đồng kiến tạo mô hình, chương trình đổi mới sáng tạo. Đồng thời, đặt khách hàng ở vị trí trung tâm của quá tình phát triển.

“Công nghệ không chỉ để chạy đua, mà quan trọng hơn phải trả lời được câu hỏi ‘Người dùng cần gì?’, mới có thể phát triển bền vững trong hành trình đổi mới sáng tạo,” ông Trọng nói.

Tương tự ông Johnathan Hạnh Nguyễn cũng nhấn mạnh yếu tố “tạo công ăn việc làm và thể hiện trách nhiệm với cộng đồng” bên cạnh việc tiếp tục đổi mới sáng tạo và đầu tư vào những lĩnh vực tạo ra sức bật cho nền kinh tế, nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững.

Vân Phong

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/khai-pha-nguon-luc-tang-truong-moi-cho-kinh-te-viet-nam/