Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - Nhân tố tạo nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động: Chiến tranh thế giới lần thứ hai sắp kết thúc, phe Đồng minh thắng thế, phe phát xít thất bại, phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước khắp các châu lục đang lên cao... Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chớp lấy thời cơ 'ngàn năm có một', vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành thắng lợi.

Nhân dân ta đã sử dụng các loại vũ khí để chống phát xít, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng Tám năm 1945. Ảnh: Bích Nguyên
Ngay từ khi Đảng ta ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải liên hệ mật thiết và thể hiện trách nhiệm đối với cách mạng thế giới. Trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình, Đảng ta đã có những quyết định chiến lược đúng đắn, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu ngay từ Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939).
Tháng 5/1941, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 ra Nghị quyết, trong đó khẳng định: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[1].
Chủ trương giải phóng dân tộc tiếp tục được khẳng định và phát triển lên tầm cao mới về chiến lược, sách lược, khẩu hiệu đấu tranh, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.
Cuộc chiến tranh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã mở đầu bằng thảm họa của quân đội Mỹ ở quân cảng Trân Châu tháng 12/1941. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã thực sự lan rộng, ảnh hưởng đến vận mệnh của tất cả các quốc gia, dân tộc, trong đó có Đông Dương.
Ngày 21/12/1941, Trung ương Đảng đã ra Thông cáo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, trong đó chỉ rõ: “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương đã nổ bùng. Cuộc đại chiến đã lan tràn ra khắp thế giới... Phát xít Nhật tuyên bố vì quyền lợi của các dân tộc nhược tiểu ở Á châu nên chúng đã gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương để đuổi người da trắng ra ngoài Á châu”[2]. Trên cơ sở phân tích chính xác bản chất của cuộc chiến tranh, Đảng Cộng sản Đông Dương kịp thời đề ra những chủ trương phù hợp, xác định nhân dân Việt Nam sẽ đứng về phe Đồng minh chống phát xít.
Trong tiến trình vận động tiến tới Tổng khởi nghĩa, Đảng đã đưa ra các biện pháp nhằm xác định rõ các lực lượng Đồng minh trong vấn đề liên quan đến cuộc chiến đấu chống Nhật ở Việt Nam gồm: Quân đội Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch, quân đội Anh - Mỹ, từ đó chủ trương sẽ hợp tác có nguyên tắc với các lực lượng bên ngoài. Đó là sự hợp tác cùng chống phát xít Nhật, đưa Việt Nam tới mục tiêu độc lập dân tộc. Ngay sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: “Cách mạng Đông Dương và cách mạng Trung Quốc có chung một mục đích là đánh đổ ách đế quốc Nhật”[3].
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã khẳng định: Đảng ta phải lãnh đạo Việt Nam độc lập Đồng minh, giao thiệp với Chính phủ kháng chiến Tàu để thực hiện khẩu hiệu Hoa - Việt kháng chiến chống Nhật trên đất Đông Dương. Phương châm của Đảng ta trong vấn đề “Hoa quân nhập Việt” là liên minh với quân Tàu đánh Nhật - Pháp theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”. Đồng thời làm cho quân Tàu thấy rằng: Họ vào Đông Dương tức là tự giúp chính mình, để cùng với nhân dân Đông Dương chiến thắng Nhật, phá tan sức uy hiếp Hoa Nam, chứ không phải vào Đông Dương để chinh phục Đông Dương[4].
Đối với Anh - Mỹ, thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương là nhân nhượng liên hiệp có điều kiện và nếu họ chịu giúp cách mạng Đông Dương thì có thể chấp nhận cho họ hưởng một phần quyền lợi ở Đông Dương. Nếu họ giúp khôi phục lại chính quyền của đế quốc Pháp ở Đông Dương thì chúng ta phải cương quyết cự tuyệt, tiếp tục chiến đấu giành quyền độc lập, nhất là không nên có “ảo tưởng” rằng, quân Tàu và quân Anh, Mỹ sẽ mang lại tự do cho ta[5].
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập được khai mạc trọng thể tại Tân Trào. Nhất trí với chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng, Việt Minh đã ban bố 10 chính sách lớn, trong đó về đối ngoại đã nhấn mạnh: “Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và ủng hộ của họ”[6]. Khi hiệu lệnh Tổng khởi nghĩa ban ra, toàn dân nổi dậy, cả nước khởi nghĩa, tạo nên sức mạnh vô địch áp đảo kẻ thù, đoạt chính quyền về tay nhân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám, sức mạnh của khối quần chúng đã được tổ chức thành những đạo quân chính trị và vũ trang tại khắp mọi miền đất nước. Đó là sức mạnh của cả dân tộc kiên quyết tự giải phóng khỏi ách thực dân, phong kiến. Khẳng định giá trị cực kỳ quan trọng của khối đoàn kết toàn dân nổi dậy giành quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[7].
Bên cạnh việc phát huy đầy đủ sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta còn biết kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập. 80 năm đã trôi qua, nhìn lại thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, chúng ta càng thấy rõ thành quả tất yếu quá trình đấu tranh bất khuất của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, không cam chịu làm nô nệ, với khát vọng cháy bỏng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó còn là thắng lợi của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để làm nên một thắng lợi vĩ đại trong lịch sử dân tộc và hiếm thấy trong lịch sử cách mạng thế giới.
Nguyên Vũ
-----------------
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.100.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.237.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.312.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.243 - 244.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.243 - 244.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.560.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7 (1951-1952), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.445.