Kết hôn, ly dị - góc nhìn từ luật xưa
Thời xưa, chuyện kết hôn, hủy hôn, ly dị nếu không làm đúng luật sẽ bị trừng phạt rất nặng bằng đòn roi.
Hủy hôn ăn đòn nặng
Việc hôn nhân đến thời Hậu Lê được luật hóa rất cụ thể trong Quốc triều hình luật. Điều 31 quy định rất chặt chẽ trong việc ăn hỏi, kết hôn: “Người kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha mẹ cô gái (nếu cha mẹ đã mất thì đem đến nhà trưởng họ hay trưởng làng) để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư theo luật sang hèn, bắt nộp tiền tạ cho cha mẹ (cha mẹ chết thì nộp cho trưởng họ), hay người con gái phải phạt 50 roi…”.
Theo Điều 32, “Gả con gái đã nhận đồ sính lễ (như tiền, lụa, vàng, bạc, lợn, rượu..) mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng. Nếu đem gả cho người khác mà đã thành hôn thì xử tội đồ làm khao đinh. Người lấy sau biết thế mà cứ lấy thì xử tội đồ, nếu không biết thì không phải tội. Còn người con gái thì phải gả cho người hỏi trước, nếu người hỏi trước không lấy nữa thì phải bồi thường đồ sính lễ gấp hai; người con gái được gả cho người hỏi sau. Nhà trai đã có sính lễ rồi, mà không lấy nữa thì phải phạt 80 trượng và mất đồ sính lễ…”.
Theo Điều 33, “Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà con gái ở trong hạt mình, thì xử phạt 70 trượng, bãi chức…”. Điều 40 còn quy định nghiêm khắc: “Các quan thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trượng; con cháu quan viên mà lấy những phụ nữ nói trên thì xử phạt 60 trượng và đều phải ly dị”.
Trong Thiên Nam dư hạ tập quy định: “Trước thông dâm rồi sau mới cưới, thì con trai phạt đánh 80 trượng, con gái phạt đánh 50 roi… Lấy vợ chưa đủ đồ sính lễ mà đã muốn thông dâm thì phạt đánh 80 trượng cho làm điền binh hoặc làm quân bản phủ…”.

Trong cuốn Điển chế và pháp luật Việt Nam thời trung đại do Nguyễn Ngọc Nhuận chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội ấn hành cho biết: “Đương có tang cha mẹ mà giấu giếm lấy vợ thì bị đánh 80 trượng, xử tội đồ làm lính khai khẩn hoặc sung làm quân bản phủ; gả chồng thì bị xử đánh 80 gậy”; “Đại tang và tiểu tang, nếu có người chết trong ngày hôm đó còn có khả năng sống lại, thì cũng cho phép cưới chạy tang. Đến ngày thứ 3 khâm liệm, ai cũng bảo là chết rồi thì không được cưới chạy tang”.
Thời nhà Nguyễn, các quy định về hôn nhân được ghi chép rất cụ thể, với 16 điều trên tổng số 66 điều của Hộ luật. Hoàng Việt luật lệ quy định chi tiết, cụ thể hơn so với Quốc triều hình luật, như nam nữ kết hôn phải thông báo rõ ràng về “tàn phế hay bệnh tật, già hay trẻ, hoặc là con vợ bé, con nuôi… đều phải thông báo rõ ràng giữa hai nhà để thuận theo sở nguyện”.
“Nếu kẻ nào hứa gả con gái cho người khác, nhưng chưa thành hôn thì chủ hôn của nhà gái bị phạt 70 trượng, nếu đã thành hôn thì bị phạt 80 trượng. Nhà trai xin cưới lần sau nếu đã biết rõ sự tình thì người chủ hôn cũng bị xử tội như nhà gái, đồ sính lễ bị sung công, còn nếu không biết thì không bị xử tội, truy thu đồ sính lễ cấp trả cho người cưới xin lần sau. Người con gái phải về với chồng trước. Nếu người chồng trước không muốn cưới nữa thì truy thu gấp đôi đồ sính lễ để cấp trả, còn người con gái đó gả cho người chồng sau. Trường hợp nhà trai hủy hôn cũng vậy…”.
Chuyện mạo nhận, đánh tráo trong hôn nhân cũng bị xử phạt rất nghiêm: “Nếu cưới xin mà nhà gái cho người mạo nhận thì người chủ hôn bị phạt đánh 80 trượng (ví dụ như người con gái bị tàn tật lại cho chị em gái thay thế để gặp mặt, sau lại để người con gái bị tàn tật làm lễ thành hôn) và truy thu đồ sính lễ. Nhà trai cho người mạo nhận thì phạt tăng thêm một bậc (ví dụ như đính hôn với con đẻ, mà lại thành hôn với người con nuôi hoặc người con trai bị tàn tật, lại để người anh em thay thế gặp mặt, sau đó lại để người tàn phế làm lễ thành hôn).
Khi chưa có luật, kết hôn theo luật tục. Trong Lĩnh Nam chích quái ghi rằng: “Hồi quốc sơ chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân”.
Nhưng tới thời Hậu Lê, kết hôn đã quy định bằng luật lệ, tới thời nhà Nguyễn thì chi tiết hơn. Trong Quốc triều chiếu lệnh thiện chính ghi rõ: “Vợ chồng là gốc của nhân luân, việc cưới gả phải theo lễ thường, không được tính toán so bì giàu nghèo, yêu sách lấy nhiều tiền mà gả bừa cho những kẻ khác giống loài. Không được tham phú quý mà đưa nhau đến chỗ loạn luân. Cũng không được chó má vô lễ như loài cầm thú. Dù là người bản quán hay người nơi khác, đều cho lấy lễ lan nhai (gọi là nộp cheo) là một quan tiền quý và một vò rượu. Quan viên và binh lính xã thôn đó không được thác cớ lấy chồng xã khác mà yêu sách tiền lễ lan nhai quá nhiều. Hoặc lấy lẫn đàn bà con gái éo le góa bụi làm thê thiếp”.
Bỏ vợ vô cớ phạt nặng
Trong cuốn Việt Nam phong tục cho biết, muốn bỏ chồng phải kiếm trầu cau trình với lý trưởng, với dân làng, dân làng phán xử cho rồi mới được bỏ. Nếu dân làng xử mà đôi bên chưa phục thì mới đến cửa quan.
Đàn ông muốn bỏ vợ phải viết tờ ly dị gọi là giấy “rẫy vợ”. Vợ cầm giấy ấy đem trình làng, trình quan, rồi mới được đi lấy chồng khác.
Hai triều Lê - Nguyễn đã có những quy định cụ thể liên quan đến việc ly hôn. Trong Hồng Đức thiện chính thư chép: “Về việc bỏ vợ, nếu không có cớ gì đáng bỏ mà bỏ và ngược lại đáng bỏ mà không bỏ thì đều bị phạt đánh 80 trượng. Đàn bà có 7 điều ly dị: Không có con là bất hiếu với cha mẹ nên phải bỏ; Lấy nhau vì thấy nghèo hèn mà khinh rẻ coi thường, không bỏ thì bại hoại gia phong; Bị ác tất, khi có việc tế tự người vợ không thể làm cỗ bàn; Dâm đãng, không bỏ thì tan nát nhà cửa; Không kính trọng cha mẹ; Không hòa thuận với anh em; Trộm cắp, không bỏ thì vạ lây đến chồng.
Vợ có 3 điều không được bỏ: Đương có tang cha mẹ; Trước thì nghèo hèn, sau thì giàu sang; Khi lấy nhau còn cha mẹ, bây giờ bỏ nhau không có nơi nương tựa. Có 3 điều này tuy vợ bị phạm vào 7 điều trên cũng khó mà ly dị được.

Đánh giá về các tội “thất xuất” của đàn bà vì thế mà bị chồng bỏ, cụ Phan Kế Bính cho rằng nhiều điều quá bất nhẫn với phụ nữ: “... như tội không có con chẳng qua bởi khí huyết, hoặc bởi tại đâu, người đàn bà có làm sao được; lắm điều, ghen tuông, thì là thói thường của đàn bà, có không thể chịu được thì lựa chọn uốn nắn dần dần cũng phải được, sao nỡ vì một lỗi nhỏ mà tuyệt tình ân nghĩa? Còn tội có ác tật là một sự bất hạnh của đàn bà, chớ nào ai muốn. Nên phải hết lòng thuốc men cho người ta, nếu chữa không được mà sợ truyền nhiễm thì nên kiếm cách giữ gìn, chớ nỡ nào bỏ người ta cầu vơ cầu vất… Tuy vậy, có tội thất xuất, lại có 3 điều bất khả xuất thì lại là một lòng rất trung hậu”.
Ngoài điều lệ “Thất xuất” và “Tam bất khả xuất” nêu trên, còn có các điều lệ bổ sung: “Vợ cả, vợ lẽ nghĩa đã đoạn tuyệt (tức là phạm vào 7 điều phải bỏ) mà người chồng ẩn nhẫn không bỏ thì sẽ bị xử tội tùy theo nặng nhẹ; vợ chồng không hòa hợp mà muốn ly dị, thì tờ ly hôn phải tự tay viết, tự tay ký, chỗ nối giữa 2 tờ phải viết niên hiệu và chứ giáp khép khít vào nhau, rồi phân làm hai bản mỗi người cầm 1 bản. Bên dưới chữ ngày tháng niên hiệu chồng phải ký tên, vợ phải điểm chỉ. Nếu không biết chữ thì cho phép người trong họ, hoặc nhờ người khác viết thay cũng được. Nếu không sẽ bị coi là không hợp pháp, sẽ không có giá trị, lại bắt hai vợ chồng đoàn tụ…”.
Cũng có tục lệ là khi vợ chồng muốn ly dị, thì hai người lấy hai chiếc đũa bẻ làm đôi, mỗi người cầm một nửa đôi đũa gãy, bỏ trong cái túi bằng lụa.
Nói về đạo vợ chồng, cụ Phan Kế Bính dẫn lời răn dạy xưa rằng: “Phu phu tương kính như tân”, nghĩa là vợ chồng kính trọng nhau như khách. Lại có câu rằng: “Phu phu hòa nhi hậu gia đạo thành”, nghĩa là vợ chồng có hòa thuận thì mới nên gia đạo. Hai câu ấy đủ làm gương trong đạo vợ chồng.
Cụ Phan Kế Bính từng lên tiếng về tục kết hôn xưa do lấy nhau quá sớm, khiến vợ chồng không có kỹ năng nuôi dạy con cái, lại đẻ con nhiều, gây nên giống nòi yếu ớt. “Vả lại lúc còn tuổi trẻ, còn đang là tuổi học hành, tìm kế lập thân, vậy mà đã vướng víu về đường vợ con, thì còn làm được gì nữa, thành ra lại làm cho hư cả người”, cụ Phan Kế Bính bày tỏ. Cụ Phan Kế Bính cũng cho rằng, trai gái nước ta không được tự do hôn phối. Cha mẹ thấy nhà nào ưng ý là gả, thậm chí bán con. Nên nhiều vợ chồng lấy nhau đâm ra oán ghét, chê bai nhau, gia đình không hòa thuận… Ngoài ra, còn tục thách cưới nhiêu khê, hủ bại.