Hướng nghiệp và phân luồng học sinh, khắc phục tình trạng 'chuộng bằng cấp'
Việc chuộng bằng cấp, coi trọng học đại học hơn các hình thức giáo dục nghề nghiệp đã dẫn đến tỷ lệ học sinh phân luồng vào giáo dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông thấp so với mục tiêu đề ra và nhu cầu của thị trường lao động...

Ảnh minh họa.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về hướng nghiệp và phân luồng giáo dục.
Xu hướng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trên thế giới hiện nay tập trung mạnh vào việc đào tạo lực lượng lao động có kỹ năng chuyên môn cao, khả năng thích ứng linh hoạt và sở hữu các kỹ năng mềm thiết yếu. Nhiều quốc gia ưu tiên đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp và thực hiện phân luồng học sinh ngay từ giai đoạn phổ thông.
NHIỀU THÁCH THỨC TRONG CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆP VÀ PHÂN LUỒNG HỌC SINH
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các mô hình giáo dục nghề nghiệp song hành, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp tại Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc hay hệ thống phân luồng đa dạng sau phổ thông cơ sở ở nhiều nước Châu Âu (như Đức, Áo, Thụy Sĩ) là những ví dụ điển hình.
Các quốc gia này chú trọng giúp người học khám phá sở thích, năng lực bản thân từ sớm và tạo điều kiện để họ lựa chọn con đường học tập, nghề nghiệp phù hợp, thay vì chỉ tập trung vào con đường học thuật truyền thống.
Tại Việt Nam, công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh đối mặt với nhiều thách thức. Về mặt thực tiễn, nền kinh tế đang trong giai đoạn cơ cấu lại, tạo ra nhu cầu lớn về lao động có kỹ năng. Đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ chất lượng cao và các ngành nghề ứng dụng công nghệ.
Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam đang tồn tại sự mất cân đối đáng kể giữa cung và cầu, giữa trình độ đào tạo và yêu cầu vị trí việc làm.
Tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" vẫn còn phổ biến khi một bộ phận không nhỏ sinh viên tốt nghiệp đại học gặp khó khăn trong tìm việc làm; trong khi nhiều doanh nghiệp lại thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật có tay nghề.
Tâm lý xã hội còn "chuộng bằng cấp", coi trọng con đường học lên đại học hơn các hình thức giáo dục nghề nghiệp vẫn là một rào cản lớn; ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành nghề, con đường học tập của học sinh và phụ huynh.
Điều này dẫn đến tỷ lệ học sinh phân luồng vào giáo dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông còn thấp so với mục tiêu đề ra và nhu cầu của thị trường lao động.
Do đó, Nghị định nhằm đảm bảo giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở được quan tâm hơn, tạo điều kiện cho học sinh tốt nghiệp trung học lựa chọn hướng đi phù hợp, tiếp cận nghề nghiệp và học tập suốt đời.
ĐẢM BẢO ÍT NHẤT 20% HỌC SINH HỌC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Dự thảo gồm 5 chương, 14 điều. Theo đó, quy định về việc cập nhật, bổ sung nội dung đảm bảo phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh, đáp ứng từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của địa phương và quốc gia.
Ngoài ra, dự thảo quy định về khung nội dung giáo dục hướng nghiệp được sử dụng trong các cơ sở giáo dục do cơ quan quản lý trực tiếp của các cơ sở giáo dục phê duyệt theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Dự thảo cũng quy định học sinh được định hướng phân luồng sau khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học cơ sở và hoàn thành chương trình giáo dục trung học phổ thông; các hướng phân luồng sau khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học cơ sở và các hướng phân luồng sau khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học phổ thông.
Việc phân luồng học sinh được thực hiện trên cơ sở nhu cầu sử dụng lao động của từng vùng, miền, địa phương, bảo đảm tính thiết thực, khả thi và hiệu quả trong tổ chức triển khai.
Người tham gia thực hiện giáo dục hướng nghiệp bao gồm cán bộ quản lý trong cơ sở giáo dục, giáo viên, viên chức và cá nhân làm công tác tư vấn học sinh tại cơ sở giáo dục; giảng viên, chuyên gia từ cơ sở giáo dục đại học tham gia theo kế hoạch phối hợp với cơ sở giáo dục phổ thông; tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện khác…
Ngoài ra, căn cứ vào khung tỷ lệ phân luồng do Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch và xác định chỉ tiêu phân luồng phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương.
Cụ thể, bảo đảm 100% học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông được tiếp cận dịch vụ hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp chuyên nghiệp. Ít nhất 20% người học trong độ tuổi từ 15-25 theo học giáo dục nghề nghiệp; tỉ lệ chuyển tiếp từ trung phổ thông và các trình độ khác đạt ít nhất 95%.