Hướng nghiệp, phân luồng: Khi 'nút thắt' bằng cấp chưa được tháo gỡ
Hướng nghiệp, phân luồng được xác định là khâu then chốt của đổi mới giáo dục, nhưng tư duy nặng bằng cấp vẫn khiến chủ trương này khó đi vào thực chất.
Bằng cấp vẫn là rào cản lớn
Trong nhiều năm qua, hướng nghiệp và phân luồng học sinh được nhắc đến như một trong những lời giải quan trọng cho bài toán mất cân đối cung - cầu lao động, thừa thầy thiếu thợ và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, dù chính sách đã ban hành, mô hình đã thí điểm, kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với kỳ vọng. Một thực tế khó phủ nhận là “nút thắt” bằng cấp vốn ăn sâu trong tư duy xã hội, vẫn đang là rào cản lớn nhất khiến công tác hướng nghiệp, phân luồng chưa thể bứt phá.
Hội thảo “Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong các cơ sở giáo dục” do Hội Cựu giáo chức cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 30/12 tại Hà Nội một lần nữa cho thấy hàng loạt vấn đề tồn tại mang tính hệ thống, chưa thể tháo gỡ trong ngày một ngày hai.

Hội Cựu giáo chức cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội thảo giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong các cơ sở giáo dục. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Theo ông Lương Tất Thùy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Cựu giáo chức cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng bền vững. Đặc biệt, Nghị quyết số 71-NQ/TW đã khẳng định rõ vai trò then chốt của giáo dục nghề nghiệp trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao, coi đây là một trụ cột của hệ thống giáo dục mở, liên thông, học tập suốt đời.
Trên thực tế, tại nhiều tỉnh, thành phố, công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau THCS, THPT đã nhận được sự quan tâm rõ nét hơn từ cấp ủy, chính quyền địa phương. Tỷ lệ học sinh đúng độ tuổi ra lớp được duy trì, kể cả ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chất lượng giáo dục từng bước được giữ vững và nâng lên. Đáng chú ý, nhận thức của một bộ phận phụ huynh học sinh về hướng nghiệp sau khi con em hoàn thành THCS, THPT đã có những chuyển biến tích cực so với trước đây.
Tuy nhiên, những chuyển động này vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra sự thay đổi mang tính nền tảng. Trong quan niệm xã hội, bằng đại học vẫn được xem là “tấm vé an toàn” cho tương lai, còn giáo dục nghề nghiệp thường bị đặt ở vị trí lựa chọn thứ yếu. Không ít phụ huynh vẫn coi học nghề là phương án “bất đắc dĩ”, chỉ tính đến khi con em không đủ khả năng theo đuổi con đường đại học.
Chính tư duy này khiến hướng nghiệp ở nhiều nơi chưa đi vào chiều sâu. Hoạt động tư vấn nghề nghiệp còn nặng về hình thức, thiếu thông tin thực tiễn về thị trường lao động, chưa giúp học sinh hiểu rõ năng lực bản thân và cơ hội phát triển nghề nghiệp lâu dài. Phân luồng vì thế mang tính hành chính nhiều hơn là sự lựa chọn tự nguyện, chủ động của người học.
Hệ quả là bức tranh thị trường lao động tiếp tục rơi vào nghịch lý, khi số lượng cử nhân tăng nhanh, nhưng doanh nghiệp vẫn thiếu lao động có kỹ năng, đặc biệt là lao động kỹ thuật lành nghề. Đây không chỉ là câu chuyện của riêng ngành giáo dục, mà là bài toán lớn của phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Thay đổi cách hướng nghiệp
Một trong những vấn đề cốt lõi là hiệu quả phân luồng học sinh sau THCS và THPT còn thấp. Không ít học sinh bước vào giáo dục nghề nghiệp trong tâm thế bị động, thiếu động lực, dẫn tới chất lượng đào tạo chưa cao và khả năng gắn bó lâu dài với nghề còn hạn chế.
Theo TS. Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo), tình trạng đầu tư dàn trải đang là điểm nghẽn lớn của hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Sau khi đã có quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, Nhà nước cần chuyển mạnh sang đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các trường chất lượng cao, các ngành nghề mũi nhọn gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế.

Giáo dục nghề nghiệp vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn. Ảnh minh họa
Cùng với đó, việc xây dựng và triển khai khung năng lực cốt lõi cho giáo viên dạy nghề và cán bộ quản lý là yêu cầu mang tính quyết định. Khi đội ngũ không đủ mạnh, chương trình đào tạo chậm cập nhật, cơ sở vật chất thiếu đồng bộ, giáo dục nghề nghiệp khó có thể tạo dựng niềm tin với người học và xã hội, dù chính sách phân luồng có được thiết kế tốt đến đâu.
Từ góc nhìn hiện đại, PGS.TS Đặng Thị Thanh Huyền, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, cho rằng hướng nghiệp trong bối cảnh mới không thể chỉ dừng ở việc cung cấp thông tin về nghề nghiệp. Quan trọng hơn, giáo dục phải giúp học sinh hình thành năng lực tự khám phá bản thân, tư duy linh hoạt, khả năng thích ứng và tinh thần học tập suốt đời. Trong một thị trường lao động biến động nhanh, nơi nhiều nghề có thể biến mất và nhiều nghề mới liên tục xuất hiện, năng lực thích ứng mới là tài sản bền vững nhất của người lao động.
Hướng nghiệp vì thế cần được thiết kế lại như một quá trình dài hơi, gắn với phát triển năng lực cá nhân, thay vì là những buổi tư vấn ngắn hạn vào cuối cấp học. Cách tiếp cận này cũng đặt ra yêu cầu phải triển khai giáo dục hướng nghiệp sớm hơn.
Theo PGS.TS Trần Đình Tuấn, Viện nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục, việc học sinh chỉ tiếp cận hướng nghiệp từ bậc THCS hoặc THPT khiến hứng thú nghề nghiệp hình thành mang tính tự phát, thiếu định hướng khoa học. Nếu được tiếp cận từ bậc tiểu học, trẻ em sẽ có điều kiện khám phá năng lực, hiểu thế giới nghề nghiệp và hình thành nền tảng cho quá trình phát triển nghề nghiệp bền vững hơn.
Tuy nhiên, mọi giải pháp kỹ thuật sẽ khó phát huy hiệu quả nếu “nút thắt” bằng cấp không được tháo gỡ từ gốc. Khi xã hội vẫn đánh giá thành công chủ yếu qua tấm bằng, khi con đường đại học vẫn được mặc định là lựa chọn ưu tiên, thì phân luồng khó có thể trở thành sự lựa chọn tự nguyện và có chất lượng.
Hướng nghiệp, phân luồng không chỉ là nhiệm vụ của ngành giáo dục, mà đòi hỏi sự thay đổi đồng bộ từ chính sách đầu tư, cơ chế sử dụng lao động, cho tới cách xã hội nhìn nhận và tôn vinh giá trị của lao động nghề nghiệp. Chỉ khi giáo dục nghề nghiệp thực sự trở thành con đường có triển vọng, được đầu tư bài bản và có cơ hội thăng tiến rõ ràng, nút thắt bằng cấp mới dần được nới lỏng.





























