Hướng đi bền vững trong giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên
Những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã và đang tạo nên những chuyển biến tích cực trong công tác giảm nghèo bền vững, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Những chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước thấm sâu vào đời sống, trở thành động lực giúp người dân tự tin vươn lên, chủ động xây dựng sinh kế ổn định.
Từ “cho con cá” đến “trao cần câu”
Nếu như trước kia, công tác giảm nghèo chủ yếu dừng ở việc hỗ trợ trực tiếp “cho con cá” để người dân vượt qua khó khăn tạm thời, thì nay, cách tiếp cận đã có nhiều đổi mới theo hướng “trao cần câu” tạo cơ hội, cung cấp sinh kế để người dân tự lực vươn lên.

Gia đình ông Nông Đức Thái, thôn Khau Cưởm, xã Vĩnh Thông được hỗ trợ trâu sinh sản.
Tại xã Vĩnh Thông, gia đình ông Nông Đức Thái (thôn Khau Cưởm), là một trong những hộ tiêu biểu được hưởng lợi từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2025. Năm 2024, gia đình ông được hỗ trợ một con trâu giống sinh sản. Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, trâu phát triển khỏe mạnh, đã sinh sản và trở thành nguồn sinh kế bền vững.
Nhà nước hỗ trợ "cần câu" còn mình phải biết cách "câu cá". Tôi học thêm kỹ thuật chăn nuôi, chủ động tìm hiểu kiến thức từ nhiều nguồn để áp dụng hiệu quả hơn. Giờ thì đàn trâu đã giúp gia đình có thu nhập ổn định, ông Thái chia sẻ.
Câu chuyện giản dị ấy là minh chứng sinh động cho cách làm mới trong công tác giảm nghèo ấy trao quyền, trao cơ hội làm trọng tâm, giúp người dân thực sự làm chủ con đường thoát nghèo.
Kiến thức chìa khóa của thoát nghèo
Không chỉ dừng ở hỗ trợ vật chất, tỉnh Thái Nguyên xác định đào tạo nghề và nâng cao năng lực sản xuất cho người lao động nông thôn là “chìa khóa vàng” để mở cánh cửa giảm nghèo bền vững.
Tại xã Yên Phong, chị Sầm Thị Điệp ở thôn Yên Bình là một trong nhiều phụ nữ dân tộc Tày tích cực tham gia học nghề. Gia đình chị làm kinh tế tổng hợp với mô hình chăn nuôi lợn, gà, vịt kết hợp nuôi cá. Trước đây, do thiếu kiến thức về dinh dưỡng vật nuôi, hiệu quả sản xuất chưa cao. Sau khi tham gia lớp dạy nghề ngắn hạn chế biến thức ăn hỗn hợp chăn nuôi do Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên Chợ Đồn tổ chức, chị Điệp đã biết cách tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có để tự chế biến thức ăn, giảm chi phí và nâng cao năng suất.
“Tham gia lớp học giúp tôi hiểu rõ hơn về kỹ thuật chăm sóc, chế biến thức ăn phù hợp từng giai đoạn sinh trưởng, từ đó tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận”, chị Điệp chia sẻ.
Đến nay, xã Yên Phong có trên 5.700 lao động, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 61%, với 20% có bằng cấp, chứng chỉ nghề. Riêng 9 tháng năm 2025, địa phương đã tạo việc làm mới cho 105 người, trong đó 20 lao động xuất khẩu và 85 người làm việc tại doanh nghiệp trong nước.
Theo Phó Chủ tịch UBND xã Yên Phong Long Thị Hải, địa phương đặt mục tiêu đến năm 2025 nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 70%, trong đó 25% có bằng cấp, chứng chỉ nghề. “Chúng tôi coi đào tạo nghề là khâu then chốt. Khi người dân có kiến thức, có nghề nghiệp, họ sẽ có việc làm bền vững và tự tin thoát nghèo”, bà Hải nhấn mạnh.

Ông Hới ở thôn Khau Cưởm, xã Vĩnh Thông chăm sóc vật nuôi được Nhà nước hỗ trợ.
Chính sách lan tỏa động lực phát triển
Nhờ triển khai đồng bộ các chương trình, dự án, Thái Nguyên đang chứng kiến sự thay đổi rõ nét ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Giai đoạn 2021–2025, toàn tỉnh đã phê duyệt và triển khai 306 dự án, gồm 68 dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, 278 dự án phát triển cộng đồng.
Song song đó, các cơ quan chuyên môn đã đào tạo nghề cho hơn 20.000 học viên, hỗ trợ gần 400 lao động dân tộc thiểu số đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời tổ chức hàng trăm hội nghị tuyên truyền, tư vấn chính sách xuất khẩu lao động cho khoảng 6.000 người. Những con số ấy phản ánh nỗ lực lớn của hệ thống chính trị trong việc chuyển hóa chính sách thành hành động, giúp người dân tiếp cận cơ hội phát triển thực chất.
Nhiều mô hình hỗ trợ sinh kế, liên kết sản xuất gắn với chuỗi giá trị đã và đang phát huy hiệu quả, mang lại thu nhập ổn định, đồng thời khơi dậy tinh thần tự cường, chủ động của đồng bào dân tộc thiểu số.
Giảm nghèo bền vững không chỉ là nhiệm vụ mà còn là thước đo của sự công bằng, nhân văn và phát triển bao trùm. Ở Thái Nguyên, những thành quả đạt được đã minh chứng rõ cho tinh thần ấy là sự lãnh đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền; sự vào cuộc của các ngành, đoàn thể; và quan trọng hơn cả là ý chí vươn lên của chính người dân.
Từ những mô hình sinh kế hiệu quả, những lớp học nghề thiết thực, đến hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện tất cả đang tạo nền tảng vững chắc cho mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau”. Người dân vùng cao Thái Nguyên giờ đây không chỉ có thêm việc làm, thu nhập, mà còn có niềm tin và khát vọng làm giàu chính đáng ngay trên quê hương mình.
Giảm nghèo bền vững hành trình dài nhưng đầy ý nghĩa ấy đang tiếp tục được tiếp sức bằng những chính sách nhân văn, sáng tạo và bằng chính nghị lực của những con người giàu khát vọng vươn lên. Đó chính là con đường chắc chắn để vùng đồng bào dân tộc thiểu số của Thái Nguyên tiến bước cùng nhịp phát triển chung của đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
































