Huế mình nhiều nơi có chè Shan?
HNN - Sau khi Báo Huế ngày nay (số ra ngày 30/7/2025) đăng bài 'Ước vọng của Giáo sư Vọng', anh Đoàn Nhuận - cựu Chủ tịch Hội Sinh viên Huế liền nhắn cho tôi câu: 'Sên Tà Ve - Chè Mụ Nú'.

Cuốn sách của Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng
Chi tiết sau cùng đã làm tôi giật mình vì cách đây hơn nửa thế kỷ, khi còn chân ước chân ráo lần vào chiến khu, trong một đêm nghỉ lại ở trạm giao liên, chính nhà báo Ngô Kha đã đọc cho tôi câu mà anh Đoàn Nhuận vừa trích dẫn. Vì cứ nghĩ “Chè Mụ Nú” là câu chuyện tếu táo liên quan “chè ăn” như giai thoại “chè Thu Sen” nên tôi không chú tâm tìm hiểu nào ngờ “Chè Mụ Nú” là giống “chè uống” khi anh Đoàn Nhuận khẳng định “từ dưới thấp nhìn lên đồi cao thấy bóng dáng những cây chè cổ thụ ở đây”.
Thượng tá Nguyễn Văn Piu, Phó Chính ủy BCHQS thành phố Huế khẳng định “ở khu vực khe Mụ Nú có rất nhiều chè rừng, thời chiến tranh các bác, các chú ở Nam Đông hay hái chè rừng nấu uống!”.
Còn Cựu chiến binh Hồ Đắc Lực cho biết, “Ở khu vực Mỏ Tàu - sông Hai Nhánh có rất nhiều chè. Cây to bằng cổ chân trở lên. Hái lá nấu, nước có màu xanh, uống rất ngon. Trước năm 1980 khi đưa gia đình lên sinh sống ở đây em cứ nghĩ giống chè này do bộ đội trồng nhưng khi trồng chè em khẳng định chỉ trong vòng chục năm chè không thể to như thế được!”.
Gần đây, trong một lần trò chuyện với hai nguyên Bí thư xã Lộc Thủy (nay thuộc xã Chân Mây - Lăng Cô) các anh: Nguyễn Văn Nhiên, Nguyễn Đình Hoài đều khẳng định: “ở vùng núi Thủy Cam thuộc dãy Bạch Mã - Hải Vân chè rừng mọc khá nhiều. Dân vẫn chặt mang về nấu nước uống!”.
Kết nối lời kể của nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hồ Xuân Mãn với lời kể của các anh: Đoàn Nhuận, Nguyễn Văn Piu, Hồ Đắc Lực, Nguyễn Văn Nhiên, Nguyễn Đình Hoài bước đầu có thể khẳng định trên dãy Đông Trường Sơn trải dài từ Phong Điền đến Phú Lộc, dưới những cánh rừng nguyên sinh đều có sự hiện diện của cây chè.
Riêng “Dốc Chè” và “Chè Mụ Nú” là hai địa danh mới xuất hiện trong chiến tranh, nó đều xuất phát từ đặc điểm địa lý nên Quân giải phóng đặt tên để dễ nhớ!

Chè rừng Mụ Nú ở TK 341. Ảnh: Chi cục Kiểm lâm Huế
“Dốc Chè” trong chiến tranh là nơi kết nối tây Phong Điền với thung lũng A Lưới ở địa phận xã Hồng Vân; còn “Chè Mụ Nú” ở vùng thượng nguồn dòng Hữu Trạch - tại đây có khe Mụ Nú thuộc địa bàn Hương Nguyên (nay là xã A Lưới 5); còn Thủy Cam nằm ở phía nam dãy núi Bạch Mã.
Rất may những địa danh này đều nằm ở vùng thượng nguồn của sông Bồ, sông Hương và vùng tiếp giáp vườn quốc gia nên được kiểm lâm và Nhân dân bảo vệ nghiêm ngặt; do vậy những cánh rừng nguyên sinh vẫn tồn tại cho đến tận bây giờ.
Còn ở đó có giống chè rừng hay còn gọi là chè Shan hay không, chất lượng của nó thế nào đến bây giờ chưa có cơ sở khoa học để xác định.
Shan, theo lời giải thích của Giáo sư Vọng được Cohen Stuart phân loại năm 1919, gồm có bốn loại: Chè Trung Hoa lá nhỏ, Chè Trung Hoa lá to, chè Ấn Độ và Chè Shan. Dựa vào phương pháp địa lý để phân loại nên khi phát hiện giống chè mọc hoang ở tiểu bang Shan của Miến Điện (Myanmar ngày nay) nên mới gọi như thế. Sau này người ta phát hiện chè hoang không chỉ có ở 3 quốc gia nêu trên mà các rừng núi tiếp giáp như Lào, Thái Lan đều có. Riêng ở Việt Nam nổi tiếng nhất là chè Shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi ở vùng núi các địa phương: Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Cao Bằng…
Theo khảo sát của Phạm Hoàng Giang, ở Việt Nam có đến 38 giống chè rừng. Muốn xác định núi rừng Huế có chè Shan rừng hay không rất cần các nhà khoa học nhập cuộc, trước mắt là thu nhặt mẫu lá từ “Dốc Chè” và ở “Mụ Nú”. Một khi khẳng định đó đúng là chè Shan của Huế mới xúc tiến các bước tiếp theo.
Riêng Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng, ông cam kết sẽ tư vấn cho quê nhà để Huế có thêm đặc sản, bổ sung cho kho tàng ẩm thực trứ danh của Huế.