Hormuz - 'Van áp lực' khi nồi hơi Trung Đông sục sôi?
Nằm giữa Oman và Iran, Eo biển Hormuz kết nối Vịnh Ba Tư với Vịnh Oman và Biển Arab. Với độ sâu và chiều rộng đủ lớn để tiếp nhận các tàu chở dầu thô siêu trọng, nơi đây trở thành một trong những điểm nghẽn dầu mỏ quan trọng nhất toàn cầu.
Theo các nghiên cứu địa chất, gần một nửa trữ lượng dầu khí của thế giới nằm dưới lòng đất hoặc quanh vùng biển Vịnh Arab. Chính đặc điểm phân bố tài nguyên này đã khiến eo biển Hormuz trở thành tuyến vận chuyển gần như bắt buộc - một "nút thắt cổ chai" mà phần lớn sản lượng dầu và khí phải đi qua để ra thế giới. Trong khi đó, các tuyến đường thay thế nếu eo biển này bị phong tỏa lại ít ỏi và hạn chế.
Điểm nghẽn năng lượng
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) nhận định eo biển Hormuz là “điểm nút vận chuyển dầu mỏ quan trọng nhất thế giới” với khoảng 1/5 lượng tiêu thụ toàn cầu được trung chuyển qua đây.
Năm 2024, khối lượng dầu mỏ trung chuyển qua eo biển Hormuz đạt trung bình 20 triệu thùng/ngày - tương đương 20% tổng lượng tiêu thụ dầu mỏ toàn cầu. Trong quý I/2025, lưu lượng này không biến động nhiều so với năm trước.
Không dừng lại ở đó, khoảng 20% giao dịch khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) toàn cầu - chủ yếu từ Qatar - cũng đi qua tuyến này. Dữ liệu theo dõi tàu từ Vortexa cho thấy Saudi Arabia là nước vận chuyển dầu thô và dầu nhẹ nhiều nhất qua eo biển Hormuz - chiếm 38% tổng lưu lượng (tương đương 5,5 triệu thùng/ngày). Saudi Aramco vận hành hệ thống đường ống Đông - Tây công suất 5 triệu thùng/ngày từ Abqaiq (Vịnh Ba Tư) tới Yanbu (Biển Đỏ), từng được tạm thời nâng lên 7 triệu thùng/ngày vào năm 2019 khi chuyển đổi một số tuyến khí lỏng sang vận chuyển dầu.
Những thông tin về căng thẳng leo thang tại Vùng Vịnh trung tuần tháng 6 đã khiến giá dầu Brent tiêu chuẩn toàn cầu tăng từ 69 USD/thùng ngày 12/6 lên 74 USD/thùng ngày 13/6. Biến động này khiến eo biển Hormuz cho thấy nơi đây không chỉ là tuyến vận tải, mà còn là “van áp lực” tâm lý của thị trường năng lượng toàn cầu.

Mong manh tuyến đường thương mại qua nút thắt cổ chai Hormuz.
Trên thế giới, có nhiều nơi được ví von như điểm nghẽn năng lượng - những tuyến đường hẹp nằm trên các khu vực hàng hải quốc tế trọng yếu - giữ vai trò sống còn với chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu. Khác với nhiều điểm nghẽn về cơ bản có thể tìm được tuyến đường thay thế dễ dàng, phần lớn lưu lượng dầu mỏ trung chuyển qua Hormuz không có lựa chọn thực tế nào ngoài việc đi qua chính eo biển này, trừ một số đường ống hạn chế. Điều này lý giải vì sao mỗi lần Tehran nhắc đến khả năng “đóng cửa Hormuz”, thị trường toàn cầu lập tức phản ứng như thể ngón tay đã chạm vào cò súng.
Trong giai đoạn từ năm 2022 đến 2024, lượng dầu thô và dầu nhẹ (condensate) trung chuyển qua eo biển Hormuz giảm khoảng 1,6 triệu thùng/ngày - phần lớn do quyết định cắt giảm sản lượng tự nguyện của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ mở rộng (OPEC+) từ tháng 11/2022, kéo theo lượng xuất khẩu từ Saudi Arabia, Kuwait và Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) giảm mạnh.
Tập đoàn Dầu khí quốc gia Saudi Aramco vận hành một hệ thống đường ống dẫn dầu và khí lỏng với công suất lên đến 7 triệu thùng/ngày, nối từ khu vực Abqaiq ở Vùng Vịnh đến cảng Yanbu bên bờ Biển Đỏ. Hệ thống này đã chứng minh khả năng phục hồi và duy trì hoạt động ổn định, ngay cả sau vụ tấn công nghiêm trọng vào cơ sở hạ tầng của Aramco năm 2019. Năm 2024, khi xảy ra gián đoạn tại eo Bab al-Mandeb - tuyến hàng hải quan trọng nối Biển Arab với Biển Đỏ - Saudi Aramco đã điều chỉnh chiến lược xuất khẩu của mình. Công ty chuyển một phần dầu thô từ tuyến qua eo biển Hormuz sang hệ thống đường ống Đông-Tây, đưa dầu ra cảng Yanbu bên Biển Đỏ, nhằm giảm phụ thuộc vào tuyến đường biển bị gián đoạn.
Nhiều quốc gia Vùng Vịnh cũng đã tăng cường công suất lọc dầu nội địa, chuyển một phần nguồn cung dầu sang tiêu thụ trong khu vực để giảm áp lực xuất khẩu qua các tuyến đường biển nhạy cảm.
Tại UAE, các mỏ dầu trên đất liền được kết nối với cảng Fujairah, nằm ngoài eo biển Hormuz ở Vịnh Oman, qua một đường ống có công suất khoảng 1,5 triệu thùng/ngày. Năm 2019, khu vực ngoài khơi Fujairah chứng kiến các vụ tấn công vào 4 tàu chở dầu, trong đó có 2 tàu của Saudi Arabia và 2 tàu của UAE, làm nổi bật rủi ro an ninh trong khu vực. UAE hiện khai thác một đường ống với công suất khoảng 1,8 triệu thùng/ngày từ các mỏ dầu trên đất liền tới cảng Fujairah. Các nhà máy lọc dầu tại đây đã được nâng cấp để xử lý nhiều dầu nặng hơn, đồng thời tăng xuất khẩu dầu nhẹ và sử dụng nhiều hơn tuyến Fujairah. Tuy nhiên, do đường ống này được vận hành thường xuyên trong hoạt động hằng ngày, nên khả năng dự phòng để ứng phó các tình huống khẩn cấp hiện khá hạn chế.
Trong khi đó, Iran đã đưa vào vận hành tuyến đường ống Goreh-Jask cùng cảng Jask trên Vịnh Oman từ tháng 7/2021 nhằm tránh tuyến qua eo biển Hormuz. Tuy nhiên, đến tháng 9/2024, hoạt động tại đây gần như đã dừng hoàn toàn, cho thấy những khó khăn trong việc duy trì và phát triển các tuyến vận chuyển dầu thay thế.
Khi “nồi hơi” Trung Đông sục sôi
Sau những diễn biến trung tuần tháng 6/2025, người ta đang bắt đầu dấy lại những đồn đoán về khả năng Iran đóng cửa eo biển Hormuz.
Từ đòn không kích phủ đầu của Israel ngày 13/6, hành động mà Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu tuyên bố là tự vệ, với mục tiêu phá vỡ chương trình hạt nhân của Tehran, xung đột Israel - Iran đã leo thang nhanh chóng, kéo theo hàng loạt vụ tấn công qua lại nhằm vào cơ sở hạt nhân, căn cứ quân sự và khu dân cư ở cả hai nước. Chỉ 1 ngày sau các cuộc tấn công quy mô chưa từng có tiền lệ, Israel đã mở rộng danh sách mục tiêu, từ cơ sở hạt nhân, nhà máy tên lửa đạn đạo và các chỉ huy quân sự, sang cả các cơ sở dầu khí - như một sự đáp trả rõ ràng trước loạt tên lửa và thiết bị bay không người lái (UAV) trút xuống các khu dân cư của nước này. Israel đã đẩy xung đột lên một cấp độ mới và cuộc khủng hoảng này hoàn toàn có thể tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng, tức thì đối với các quốc gia sản xuất dầu khí tại Vùng Vịnh, về lâu dài là cả nền kinh tế khu vực và toàn thế giới.
Tehran thường vận dụng “quyền năng đặc biệt” tại eo biển Hormuz như một công cụ mặc cả chiến lược, đặc biệt trong các giai đoạn xung đột gay gắt, dù họ chưa từng hiện thực hóa nó. Năm 2012, Iran cũng từng dọa chặn eo biển Hormuz để đáp trả các lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu. Đã có nhiều cảnh báo và nhận định về khả năng Iran sẽ lựa chọn nếu họ thực sự muốn đóng cửa eo biển Hormuz chẳng hạn như dùng UAV, có thể là mẫu Shahed, để nhằm vào các tuyến vận tải thương mại đi qua eo biển, hoặc dùng tàu chiến để chặn đứng những hoạt động thương mại qua khu vực. Dù sao đi nữa, điều người ta có thể chắc chắn ở thời điểm này là mọi gián đoạn về nguồn cung dầu sẽ kéo theo giá năng lượng và các chi phí liên quan như bảo hiểm, vận chuyển tăng vọt, tiếp theo đó là những ảnh hưởng gián tiếp đến lạm phát và giá cả toàn cầu.
Nếu đe dọa của Iran là thật, ai sẽ là nạn nhân chịu ảnh hưởng lớn nhất? Ước tính của EIA cho thấy 84% lượng dầu thô và dầu nhẹ, cùng 83% lượng LNG đi qua Hormuz trong năm 2024 là để phục vụ các thị trường châu Á. 4 quốc gia gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm tới 69% tổng lượng dầu đi qua eo biển này. Ngược lại, Mỹ - nhờ sản lượng nội địa tăng mạnh và nhập khẩu từ Canada - chỉ còn phụ thuộc khoảng 0,5 triệu thùng/ngày dầu từ khu vực Vùng Vịnh qua Hormuz (7% tổng nhập khẩu và 2% tiêu thụ dầu của Mỹ) - mức thấp nhất trong gần 40 năm. Nhiều người đã đặt dấu hỏi rằng nếu Hormuz bị phong tỏa, châu Á phải chăng sẽ là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất?
Điều trớ trêu là quốc gia duy nhất trong khu vực không chịu hậu quả trực tiếp nếu eo biển Hormuz bị phong tỏa lại chính là Israel. Toàn bộ lượng dầu thô tiêu thụ khoảng 220.000 thùng/ngày của nước này lại được nhập qua Địa Trung Hải từ Azerbaijan (thông qua đường ống Baku-Tbilisi-Ceyhan qua Thổ Nhĩ Kỳ), Mỹ, Brazil, Gabon và Nigeria.
Nếu Hormuz bị chặn, gián đoạn giao thông vận tải, thương mại là một chuyện, việc đóng cửa hoàn toàn “nút cổ chai” này lại là câu chuyện khác, mà trong đó nạn nhân chính yếu, không ai khác là Iran bởi họ lệ thuộc vào eo biểu này để xuất khẩu dầu mỏ - nói cách khác, đóng cửa Hormuz là cách Iran tự bắn vào nền kinh tế của chính mình.
Hãy nhìn vào thực tế
Các chuyên gia cho rằng, tuyến đường chở dầu qua eo biển Hormuz không bao giờ bị gián đoạn nghiêm trọng và Iran khó có thể đóng hoàn toàn eo biểu này do sự hiện diện của Mỹ, với Hạm đội 5 đóng tại Bahrain, cũng như khả năng rà phá thủy lôi và can thiệp quân sự nhanh chóng của các đồng minh phương Tây. Thêm vào đó là những nguy cơ trực diện mà Iran sẽ phải đối mặt khi lựa chọn nước cờ hiểm này. Nếu thực sự muốn leo thang căng thẳng tại eo biển Hormuz, Iran sẽ cần phải tính toán thận trọng, làm đến mức nào đó đủ để lôi kéo Nga và Trung Quốc vào cuộc nhằm hạ nhiệt, song vẫn không vượt quá các lằn ranh để Mỹ và phương Tây kiềm chế can thiệp theo hướng ủng hộ Israel.
Nhìn vào những gì diễn ra trong cuộc chiến tàu chở dầu những năm 1980, Iran không đủ khả năng ngăn chặn hoặc làm giảm dòng trung chuyển dầu mỏ qua eo biển Hormuz trong thời gian dài. Phân tích của Trung tâm Strauss về an ninh và luật quốc tế ước tính một chiến dịch quy mô lớn của Iran chỉ có “5% xác suất ngăn chặn được mỗi tàu bằng cách tấn công cảm tử bằng xuồng nhỏ và khoảng 12% nếu dùng loạt tên lửa hành trình chống hạm... Cốt lõi là nếu có gián đoạn, thị trường dầu mỏ thế giới đã có cơ chế điều tiết sẵn có. Và, vì khả năng gián đoạn kéo dài là rất thấp, do đó tất cả chỉ cần vượt qua cú sốc ban đầu là đủ”.