Hơn 100.000 tỷ đồng phát triển công nghiệp văn hóa: Làm gì để trúng và đúng?

Một chương trình tham vọng vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt: hơn 100.000 tỷ đồng cho công nghiệp văn hóa giai đoạn 2025-2035. Nhưng làm thế nào để khoản đầu tư khổng lồ này thật sự hiệu quả, tránh lãng phí và tạo ra các sản phẩm đột phá là câu hỏi mà giới chuyên gia liên tục đặt ra.

Ưu tiên nội dung sáng tạo

Theo phê duyệt, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030 đặt ra tổng vốn tối thiểu 122.250 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách trung ương khoảng 77.000 tỷ đồng (63%), ngân sách địa phương 30.250 tỷ đồng (24,6%) và các nguồn khác 15.000 tỷ đồng (12,4%). Đây được coi là bước tiến trong việc đưa văn hóa trở thành động lực phát triển bền vững, đồng thời coi công nghiệp văn hóa như một ngành kinh tế mũi nhọn.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội nhấn mạnh: “Chương trình này không chỉ tăng cường ngân sách cho văn hóa mà còn đặt mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, hỗ trợ sáng tạo nghệ thuật và thúc đẩy công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế quan trọng. Vấn đề then chốt là phân bổ nguồn vốn thế nào cho hợp lý, minh bạch và hiệu quả”.

Một trong những nhiệm vụ được nhấn mạnh là hỗ trợ điện ảnh, âm nhạc, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, thiết kế, xuất bản. Đây được cho là hướng đi đúng. Bởi thực tế nhiều dự án văn hóa trước đây từng bị phê phán vì hoành tráng trên giấy nhưng hiệu quả kém.

Nhà nghiên cứu Trần Trung Kiên (Viện Hàn lâm KHXH) nhận xét: “Nếu không có cơ chế giám sát chặt chẽ và tiêu chí đánh giá cụ thể, các khoản chi dễ chảy vào công trình hạ tầng hoành tráng nhưng bị bỏ quên. Trong khi điều mà công nghiệp văn hóa cần chính là đầu tư cho nội dung sáng tạo - những tác phẩm có thể sống trong lòng công chúng, có giá trị xuất khẩu và lan tỏa hình ảnh quốc gia. Phim ảnh, âm nhạc, xuất bản, công nghiệp biểu diễn mới thực sự là "hạt nhân" đem lại doanh thu và sức ảnh hưởng toàn cầu, chứ không phải những nhà hát hàng trăm tỷ đồng xây lên rồi đóng cửa. Việt Nam cần dứt khoát tránh lặp lại vết xe đổ, chuyển trọng tâm sang hỗ trợ nghệ sĩ, biên kịch, nhà sản xuất và doanh nghiệp sáng tạo, để nguồn lực biến thành sản phẩm có đời sống dài hạn”.

Điện ảnh Việt, chẳng hạn, đang có những phim doanh thu trăm tỷ như Mưa đỏ hay Tử chiến trên không. Nhưng số phim chất lượng cao, đủ sức dự thi quốc tế vẫn ít. Nếu không có chiến lược đào tạo biên kịch, đạo diễn trẻ, sẽ khó tạo ra “thế hệ vàng” đủ sức cạnh tranh.

Theo đạo diễn Bùi Thạc Chuyên, cơ chế hỗ trợ phim nghệ thuật và phim độc lập phải minh bạch, bởi đây là nguồn nuôi dưỡng sáng tạo, có nhiều cơ hội đi xa tại các liên hoan quốc tế. Các quỹ điện ảnh quốc gia có thể ưu tiên cho dự án có kịch bản đột phá, hướng tới giá trị nhân văn, thay vì chỉ chạy theo doanh thu.

Ngoài ra, chính sách ưu đãi thuế, hạ tầng trường quay, hệ thống phát hành cũng cần được thiết kế để khuyến khích cả doanh nghiệp trong nước và đối tác quốc tế. Quan trọng không kém là chiến lược đào tạo dài hạn: xây dựng trung tâm biên kịch, đạo diễn trẻ, liên kết với các trường điện ảnh quốc tế nhằm tạo môi trường rèn luyện thực chất, tiếp cận xu hướng điện ảnh thế giới.

 Triển lãm AIgorithm thu hút hàng chục nghìn khách tham quan.

Triển lãm AIgorithm thu hút hàng chục nghìn khách tham quan.

Trong lĩnh vực văn học, nhà văn Nguyễn Bình Phương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) chia sẻ với Tiền Phong: “Nhà văn không cần hỗ trợ sáng tác, vì khi sáng tác cần độc lập, tự chủ trên mọi khía cạnh. Nhưng khi viết xong, nếu tác phẩm có giá trị thì nó trở thành tài sản của cộng đồng và quốc gia. Việc quảng bá tài sản ấy là trách nhiệm chung. Muốn văn học ra quốc tế thì phải dịch, phải quảng bá. Tôi cho rằng cần có một Viện dịch thuật văn học mang tầm quốc gia để đưa tác phẩm ra ngoài biên giới”.

Công nghiệp văn hóa trong kỷ nguyên số

PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhận định: “Công nghiệp văn hóa không thể tách rời công nghệ. Những nền tảng mới là con đường ngắn nhất để sản phẩm văn hóa Việt Nam bước ra thế giới. Nhưng nếu không có chính sách hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, thì các doanh nghiệp nhỏ và nghệ sĩ trẻ rất khó cạnh tranh với các tập đoàn công nghệ quốc tế”.

Thực tế cho thấy, các sản phẩm văn hóa gắn với công nghệ số đã tạo ra cú hích đáng kể. Triển lãm ảo AIgorithm tại TP.HCM từng thu hút hàng chục nghìn lượt khách, trong đó có nhiều du khách quốc tế đánh giá cao sự kết hợp giữa nghệ thuật truyền thống và trí tuệ nhân tạo. Trong điện ảnh, một số dự án thử nghiệm ứng dụng AI để dựng cảnh, tạo hiệu ứng đặc biệt giúp giảm chi phí, mở ra khả năng tiếp cận công nghệ toàn cầu.

Ở xuất bản, nhiều nhà văn trẻ chọn phát hành trực tuyến để tiếp cận độc giả quốc tế, còn tác phẩm nghệ thuật NFT giúp nghệ sĩ bảo vệ bản quyền và tiếp cận nhà sưu tập.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Trần Trung Kiên cảnh báo: “Nếu chỉ trông vào nỗ lực cá nhân thì rất khó. Nhà nước cần có quỹ hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo số, khuyến khích khởi nghiệp văn hóa, tạo hành lang pháp lý rõ ràng để quản lý và bảo vệ quyền lợi nghệ sĩ. Đặc biệt, cần đào tạo nguồn nhân lực trẻ, để họ đủ năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu”.

 Bên trong vỏ kén vàng của Phạm Thiên Ân được vinh danh tại Cannes đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao uy tín cho điện ảnh Việt trên trường quốc tế.

Bên trong vỏ kén vàng của Phạm Thiên Ân được vinh danh tại Cannes đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao uy tín cho điện ảnh Việt trên trường quốc tế.

Bài học từ quốc tế Nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang cho biết, công nghiệp văn hóa có thể xem là lĩnh vực mới nổi, mũi nhọn, đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế. Ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, công nghiệp văn hóa là nguồn thu chính. Hàn Quốc từ thập niên 1990 đã đưa Hallyu (làn sóng văn hóa) thành chiến lược quốc gia. Chỉ riêng xuất khẩu nội dung văn hóa năm 2024 đã đạt 14,16 tỷ USD. Trung Quốc đầu tư mạnh vào điện ảnh, doanh thu phòng vé nhiều năm vượt Mỹ. Ấn Độ, chỉ riêng Bollywood đã đóng góp hơn 15 tỷ USD mỗi năm. Điểm chung là: nhà nước tạo cơ chế tài chính ổn định, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp văn hóa, đầu tư mạnh vào đào tạo nhân lực sáng tạo. Việt Nam cần rút ra chiến lược dài hạn, tránh tư duy “ăn đong” theo từng dự án ngắn hạn.

Ông Kiên nhấn mạnh: “Các chương trình văn hóa quy mô quốc gia cần cơ chế ràng buộc trách nhiệm rõ ràng. Phải có bộ tiêu chí đánh giá đầu ra, cơ chế giám sát độc lập để tránh việc vốn khổng lồ bị dàn trải, dự án xong thì bỏ hoang, hoặc sản phẩm ra đời nhưng không có khán giả”.

TS. Phạm Việt Long, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản lý Viện Nghiên cứu văn hóa và phát triển, lạc quan hơn: “Phát triển văn hóa có thể tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy các ngành kinh tế khác như du lịch, dịch vụ và công nghiệp sáng tạo. Đây là những lĩnh vực tiềm năng lớn, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế”.

Hạ Đan

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/hon-100000-ty-dong-phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-lam-gi-de-trung-va-dung-post1783430.tpo