Hội nhập cần bắt kịp với yêu cầu của Kỷ nguyên mới
Với cục diện đối ngoại thuận lợi sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đang sẵn sàng cho bước đột phá về hội nhập, hướng đến mục tiêu vươn mình trong Kỷ nguyên mới.

Tổng bí thư Tô Lâm tiếp Tổng bí thư Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhân dịp chuyến thăm Việt Nam. Ảnh: Báo Nhân dân.
Theo số liệu của Cục Thống kê, Bộ Tài chính, 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam thu hút được hơn 24 tỷ USD vốn FDI, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế, đến nay có khoảng hơn 43 nghìn dự án FDI tại Việt Nam còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 530 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện đạt hơn 340 tỷ USD, bằng hơn 64% tổn vốn đăng ký còn hiệu lực.
Cũng trong 7 tháng đầu năm, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt gần 82,3 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu đạt gần 42,3 tỷ USD, xuất siêu gần 2,3 tỷ USD.
Những con số ấn tượng của hoạt động thương mại và đầu tư là minh chứng rõ nét nhất cho thành tựu của Việt Nam sau gần 40 năm thay đổi tư duy đối ngoại. Đây cũng là động lực quan trọng cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam suốt gần 40 năm Đổi mới, cũng như hứa hẹn tiếp tục là yếu tố quan trọng đưa tăng trưởng kinh tế đạt hai con số trong Kỷ nguyên mới.
Hành trình bước ra thế giới
Đổi mới năm 1986 không chỉ đánh dấu bước ngoặt về phát triển kinh tế mà còn là dấu mốc cho sự thay đổi trong tư duy đối ngoại. Từ tư duy bạn – thù, Việt Nam chuyển hướng sang làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hòa bình và phát triển.
Tuy nhiên, dấu mốc Việt Nam thực sự bước ra thế giới, theo Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ, là vào thời điểm gần một thập kỷ sau Đổi mới, khi Việt Nam bắt đầu bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Trong đó, bình thường hóa quan hệ với Mỹ là bước ngoặt mang tính “phá vây” khi mở đường cho doanh nghiệp Mỹ vào Việt Nam, gián tiếp thể hiện những tiềm năng của Việt Nam ra thế giới, qua đó thiết lập quan hệ và thu hút đầu tư, giao thương xuất khẩu với phương Tây.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp mặt cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara vào cuối năm 1995, sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ.
Còn với việc gia nhập ASEAN, lần đầu tiên Việt Nam tham gia một sân chơi chung, với mặt bằng thuế quan chung và những quy định ràng buộc chung. Qua đó, doanh nghiệp Việt bắt buộc phải tìm hiểu, tuân thủ những chuẩn mực mang tính quốc tế thay vì chỉ sản xuất, buôn bán trong nước.
Hai sự kiện này đã đặt nền tảng để Việt Nam tiếp tục duy trì nỗ lực mở cửa nền kinh tế, cải cách thể chế và tăng cường hợp tác quốc tế. Đầu năm 2007, Việt Nam tham gia một sân chơi chung mang tính toàn cầu hơn, với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tính đến hiện nay, WTO bao gồm 165 thành viên, quy mô chiếm hơn 90% tổng giá trị thương mại toàn cầu. Các quy định của WTO bao gồm các lĩnh vực chính như thương mại hàng hóa, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và cơ chế giải quyết tranh chấp, với các nguyên tắc như chống bảo hộ, chống phân biệt đối xử và tạo điều kiện ưu đãi cho các nền kinh tế đang phát triển, qua đó giúp ích rất nhiều quá trình phát triển kinh tế ở các quốc gia định hướng tập trung nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam.
Gia nhập WTO đem lại cơ hội lịch sử nhưng cũng là thách thức lớn với doanh nghiệp Việt. Đơn cử, chuẩn mực quốc tế về quản trị minh bạch và hiệu quả, tại thời điểm đó, vẫn còn là điều gì đó rất đỗi mơ hồ và xa lạ với cộng đồng doanh nghiệp.
Ngoài ra, gia nhập WTO mở đầu cho một làn sóng FDI mới, với tổng vốn FDI vào Việt Nam năm 2008 tăng đột biến lên hơn 64 tỷ USD, gấp ba lần năm 2007. Những cái tên lớn như Samsung, Intel, LG… đầu tư tại Việt Nam thời điểm đó, đến nay vẫn để lại nhiều dấu ấn đối với kinh tế Việt Nam.

Intel là doanh nghiệp FDI tiêu biểu đầu tư vào Việt Nam giai đoạn Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, tính cạnh tranh từ đó cũng gia tăng mạnh mẽ. Không chỉ lo cạnh tranh với đối thủ trên trường quốc tế, doanh nghiệp còn phải cạnh tranh ngay trên sân nhà, với FDI và cả hàng ngoại nhập được hưởng ưu đãi thuế.
Ở cấp độ chính sách, câu chuyện cải cách thể chế theo hướng minh bạch, hiện đại và tuân thủ chuẩn mực quốc tế, cùng bài toán làm sao hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển nhưng không được vi phạm quy định chống bảo hộ, chống phân biệt đối xử cũng tạo ra áp lực lớn.
“Áp lực tạo kim cương” có lẽ là hình dung rõ nét nhất về những nỗ lực của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Ở cấp độ Nhà nước, cải cách thể chế diễn ra mạnh mẽ. Việc sửa đổi, hoàn thiện một loạt khung pháp lý về đầu tư, thương mại và sở hữu trí tuệ giúp Việt Nam cải thiện thứ hạng, lọt vào top nửa trên trong bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) chỉ sau 10 năm.
Cùng với đó, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam cũng liên tục được cải thiện, đến nay đã đưa Việt Nam xếp thứ 54/166 quốc gia, theo đánh giá của Liên hợp quốc, một thứ hạng tích cực đối với nền kinh tế đang trên đà phát triển.
Không chỉ dừng lại tuân thủ cam kết, chuẩn mực và khai thác thị trường WTO, Việt Nam liên tục tận dụng sức bật để ký kết các hiệp định tự do thương mại (FTA) với nhiều đối tác lớn. Đến nay Việt Nam đã ký kết thành công và đang thực hiện 17 FTA cả song phương và đa phương, bao gồm cả những FTA thế hệ mới, với cam kết sâu rộng trên nhiều phương diện như RCEP, CPTTP, EVFTA.

Việt Nam và Liên minh châu Âu ký kết hiệp định EVFTA. Ảnh: TTXVN
Ở cộng đồng doanh nghiệp, nỗ lực thích ứng cũng trở thành động lực vươn lên mạnh mẽ. Cạnh tranh với thế giới, doanh nghiệp không chỉ hạ giá thành, nâng cao chất lượng mà còn đảm bảo tính minh bạch về thông tin, cung cấp dịch vụ hậu mãi, qua đó tận dụng hiệu quả thị trường to lớn được mở ra từ WTO cũng như các FTA.
Điều này thể hiện rõ nét ở thành tích xuất khẩu, với tổng kim ngạch tăng gấp 5 lần sau 12 năm, từ khoảng hơn 48 tỷ USD năm 2007 đến hơn 264 tỷ USD năm 2019, trước thời điểm đại dịch Covid-19.
Những thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc đã trở thành những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đáng chú ý, không chỉ những sản phẩm nông sản, dệt may, hàng gia công, Việt Nam đang tăng cường xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ, sản phẩm xanh và hàng mang thương hiệu Việt ra quốc tế, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế lên những bậc thang mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tính minh bạch và phát triển bền vững được doanh nghiệp thực hành ngày càng bài bản. Theo báo cáo của PwC Việt Nam, đến năm 2023, đã có 66% doanh nghiệp niêm yết trên sàn HoSE có kế hoạch ESG cụ thể.
Nhiều giải pháp ESG của Việt Nam nhận được đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế, từ việc canh tác lúa phát thải thấp, tiết kiệm năng lượng trong sản xuất cho đến thúc đẩy tái chế công nghệ cao, áp dụng mô hình cộng sinh công nghiệp.
Bài toán hội nhập trong kỷ nguyên mới
Những ngày đầu năm 2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, tiếp tục đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập của đất nước.
Nghị quyết 59 ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi Việt Nam đang có một cục diện đối ngoại hết sức thuận lợi. Theo Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, Việt Nam hiện đang thiết lâp quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 30 quốc gia, bao gồm cả 5 cường quốc là thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Hội nhập quốc tế phải bắt kịp tầm của Kỷ nguyên mới
Đại sứ Phạm Quang Vinh
Về kinh tế, Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ tăng trưởng top đầu thế giới, giữ được đà tăng trưởng dương bất chấp Covid-19 hay các sự kiện bất ổn địa chính trị, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. GDP ngang giá sức mua (GDP PPP) của Việt Nam đạt hơn 1.400 tỷ USD, xếp thứ 25 toàn cầu và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á.
Những thành tựu này là nền tảng quan trọng để làm sâu sắc hoạt động hội nhập, qua đó tiếp tục kiến tạo nhiều cơ hội to lớn hơn, giúp Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong Kỷ nguyên mới.
“Hội nhập quốc tế phải bắt kịp tầm của Kỷ nguyên mới”, Đại sứ Phạm Quang Vinh khái quát.
Tuy nhiên, cục diện đối ngoại thuận lợi lại đặt ra câu hỏi lớn cho nhiệm vụ “nâng tầm hội nhập quốc tế”. Liệu, hội nhập phải được nâng tầm đến mức độ thế nào, biểu hiện cụ thể ra sao để đạt được tầm của Kỷ nguyên mới?

Tổng bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị. Ảnh: Báo Nhân dân.
Trả lời cho câu hỏi này, trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tổng bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, Nghị quyết 59 đánh dấu bước chuyển tiếp từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ.
Ngoài ra, điểm đột phá của Nghị quyết 59 được đặt trong mối tổng hòa giữa bộ tứ chính sách trụ cột, bao gồm đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển kinh tế tư nhân.
Trong đó, hội nhập quốc tế cần đảm bảo bám sát nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế, bên cạnh tranh thủ những động lực tăng trưởng mới, bao gồm tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, tăng trưởng xanh, tăng trưởng qua nâng cao năng suất, xây dựng thương hiệu, thay vì chỉ chạy theo tăng trưởng chiều rộng, dựa vào tăng khai thác tài nguyên và tận dụng lao động giá rẻ.
Để đạt được điều này, hội nhập cần đảm bảo yêu cầu đầu tiên là giữ vững môi trường hòa bình, tránh xung đột, giải quyết bất đồng bằng đối thoại trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế cũng như độc lập, chủ quyền dân tộc.
Điều này giúp tạo môi trường ổn định về chính trị phục vụ tăng trưởng, ngoài ra cũng mở ra nhiều cơ hội hợp tác mới.
Đi vào từng ngành, lĩnh vực, hội nhập quốc tế sâu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, môi trường sẽ trở thành những mũi nhọn nâng tầm chất lượng hội nhập, qua đó mở ra cơ hội phát triển kinh tế mới, thay vì chỉ mở rộng về thị trường.
Một điểm được Nghị quyết 59 nhấn mạnh là trong một thế giới chuyển biến sâu sắc, Việt Nam cần chủ động tham gia kiến tạo cục diện toàn cầu, tuy nhiên vẫn cần giữ vững nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, quyền bình đẳng và tôn trọng công pháp quốc tế.
Doanh nghiệp vươn ra thế giới
Cục diện đối ngoại thuận lợi đã và đang tiếp tục được thiết lập để tạo tiền đề phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bài toán đặt ra là làm thế nào cộng đồng doanh nghiệp – chủ thể được xác định là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế” - có thể tận dụng được những cơ hội mới.
Bài toán càng trở nên thách thức trong bối cảnh địa chính trị toàn cầu biến động một cách khó lường. Có thể thấy rõ qua câu chuyện chính sách thuế đối ứng của Mỹ đã tạo ra tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, luật chơi toàn cầu cũng chứng kiến nhiều thay đổi, nổi bật nhất là yếu tố xanh, bền vững đang dần trở thành yêu cầu bắt buộc của nhiều thị trường lớn trên thế giới. Không sớm đáp ứng yêu cầu này, doanh nghiệp sẽ đánh mất thị trường, đánh mất cơ hội thuận lợi được kiến tạo từ thành tựu hội nhập.
Những khó khăn, thách thức ấy đang dần được hóa giải bởi sự chủ động và linh hoạt của cộng đồng doanh nghiệp.
Những ngày đầu tháng 6 đánh dấu mốc quan trọng của ngành lúa gạo khi lần đầu tiên lô hàng “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” được Công ty CP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa, trong bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn đang loay hoay giải bài toán xây dựng thương hiệu tại thị trường xuất khẩu. Việc xuất khẩu gạo mang thương hiệu “xanh” mở ra con đường mới, khi ngành nông nghiệp – bệ đỡ của nền kinh tế - đang chuyển động theo xu thế của thời đại, tạo dựng danh tiếng hàng Việt Nam dựa trên tính cạnh tranh bằng phát triển bền vững.
Ở ngành thủy sản, Công ty CP Thủy sản Sao Ta đang đối diện với những thách thức lớn đến từ chính sách thuế của Mỹ, từ mức thuế đối ứng 20% cho đến thuế chống bán phá giá hơn 35% áp dụng cho ngành tôm.
Dù vậy, Chủ tịch HĐQT Thủy sản Sao Ta Hồ Quốc Lực vẫn tương đối tự tin ở năng lực cạnh tranh của mình trên trường quốc tế, nhờ vào vị thế riêng ở phân khúc cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh từ Ấn Độ hay Ecuador.
Trong trường hợp xấu khi thuế Mỹ ở mức quá cao, việc tập trung vào chế biến tạo giá trị gia tăng cũng là nền tảng quan trọng giúp Sao Ta đa dạng hóa thị trường. Từ năm 2020, doanh nghiệp đã thực hiện chiến lược thị trường linh hoạt, khai thác các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU…

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm việc với Tập đoàn Alterosa. Ảnh: VGP.
Hóa giải thách thức, doanh nghiệp cũng đang chứng tỏ bản lĩnh trong tận dụng cơ hội hợp tác quốc tế. Tập đoàn MK của doanh nhân Nguyễn Trọng Khang đã liên doanh với Tập đoàn Alterosa đến từ Brazil để triển khai giải pháp thanh toán và các sản phẩm thẻ thanh toán, thẻ thông minh và các dịch vụ công nghệ tài chính.
Tại buổi làm việc với Tập đoàn Alterosa, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đề nghị Alterosa và MK tiếp tục hợp tác sâu rộng, đặc biệt trong việc triển khai giải pháp căn cước công dân gắn chip tại thị trường Brazil.
Lời đề nghị của Thủ tướng dựa trên nền tảng Tập đoàn MK đã đồng hành với Chính phủ Việt Nam trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia, đóng góp quan trọng cho sự thành công của dự án phổ cập căn cước công dân gắn chip tại Việt Nam.
Tập đoàn Hòa Phát, ông lớn ngành thép Việt Nam, mới đây cũng đã ký kết với Tập đoàn SMS đến từ Ý để thiết kế, cung cấp và lắp đặt dây chuyền sản xuất thép ray, thép đặc biệt.
Chủ tịch Hòa Phát Trần Đình Long kỳ vọng, với dây chuyền hiện đại của SMS, Hòa Phát có thể sản xuất thép ray cao tốc trong quý I/2027 và cung cấp cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, dự án trọng điểm mang tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế Việt Nam trong Kỷ nguyên mới.
Không chỉ doanh nghiệp lớn mà ngay cả cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những giải pháp riêng để tận dụng cơ hội từ hợp tác quốc tế. Điển hình như Công ty CP Dh Foods, với nền tảng Amazon, đã tăng trưởng mạnh mẽ doanh thu xuất khẩu, vừa kiếm lợi nhuận, vừa đưa gia vị Việt Nam đến tay người tiêu dùng thế giới.
Hay Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Cà phê Minh Tiến, với quy mô khoảng trên 100 nhân sự, sau hành trình hơn 30 năm hình thành và phát triển, đã thành công giới thiệu tới toàn cầu thương hiệu cà phê Việt Nam chất lượng cao gắn với chuỗi giá trị kinh tế tuần hoàn.
Còn nhiều những bước tiến khác của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Không chỉ tìm kiếm lợi nhuận, đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước, doanh nghiệp đang củng cố thông điệp về một Việt Nam thân thiện, sẵn sàng hợp tác, sẵn sàng tiên phong trong các xu thế mới để kiến tạo tương lai tốt đẹp cho toàn cầu.
***
Bài viết thuộc chuyên đề "Từ Độc lập đến Thịnh vượng" do TheLEADER triển khai nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.
