Học kỹ năng từ lớp 1 đến 12, tại sao nhiều học sinh bị đánh chỉ biết ôm đầu chịu trận?

Nhìn cảnh học sinh co rúm chịu đòn, nhiều người băn khoăn và đặt ra câu hỏi: Tại sao học sinh không có kỹ năng tự vệ khi đối diện với bạo lực?

Gần đây, mạng xã hội lan truyền nhiều clip bạo lực học đường khiến người xem không khỏi xót xa. Điểm khiến người viết trăn trở khi xem những clip này là học sinh - nạn nhân cô độc, cam chịu, chỉ biết ôm đầu hứng chịu những cú đấm đá túi bụi từ nhóm bạn hung hãn mà không hề có phản xạ bỏ chạy hay tự vệ.

Mới đây nhất là vụ bạo hành lan truyền trên mạng, được cho là nhóm học sinh lớp 8 ở miền Tây Nam Bộ. Nhìn cảnh học sinh co rúm chịu đòn, người viết băn khoăn: Tại sao học sinh không có kỹ năng tự vệ khi đối diện với bạo lực? Trong khi đó, các em được trang bị kỹ năng ứng phó thực tế rất nhiều, đặc biệt trong những bộ môn liên quan đến nội dung giáo dục công dân, chưa kể, hiện nay các trường còn liên kết dạy kỹ năng sống với các công ty bên ngoài.

 Ảnh minh họa: Doãn Nhàn

Ảnh minh họa: Doãn Nhàn

Chương trình học rất đầy đủ

Dựa vào Chương trình giáo dục phổ thông, có thể thấy nội dung giáo dục công dân (bao gồm môn Đạo đức ở Tiểu học, Giáo dục công dân ở trung học cơ sở và Giáo dục kinh tế và pháp luật ở trung học phổ thông) được thiết kế rất công phu. Mục tiêu của môn học không chỉ là dạy làm người tốt mà còn tập trung phát triển 3 nhóm năng lực cốt lõi là: Điều chỉnh hành vi, phát triển bản thân, tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế – xã hội.

Từ lớp 1 đến lớp 12, kiến thức về kỹ năng sống được “rải” đều khắp các trang sách của học sinh.

Chẳng hạn, nhóm kỹ năng nhận thức và quản lý bản thân dạy cho các em các kỹ năng cụ thể như: biết tự chăm sóc bản thân (lớp 1), thể hiện cảm xúc bản thân (lớp 2), khám phá bản thân (lớp 3), thiết lập và duy trì quan hệ bạn bè (lớp 4), lập kế hoạch cá nhân (lớp 5); tự nhận thức bản thân (lớp 6), ứng phó với tâm lý căng thẳng (lớp 7), xác định mục tiêu cá nhân (lớp 8),…

Hoặc, nhóm kỹ năng tự bảo vệ cốt yếu trang bị cho học sinh những kỹ năng thiết thực như: phòng, tránh tai nạn, thương tích (lớp 1); tìm kiếm sự hỗ trợ (lớp 2); xử lý bất hòa với bạn bè (lớp 3); phòng, tránh xâm hại ở cấp tiểu học (lớp 4), ứng phó với tình huống nguy hiểm (lớp 6); phòng, chống bạo lực học đường (lớp 7); phòng, chống bạo lực gia đình (lớp 8), thích ứng với thay đổi (lớp 9);… Các kỹ năng này tiếp tục được lồng ghép ở mức độ cao hơn ở cấp trung học phổ thông.

Có thể khẳng định, kiến thức về kỹ năng được chương trình thiết kế phong phú, thiết thực và đầy đủ. Nhưng tại sao khi có tình huống thực tế xảy ra thì kiến thức ấy lại bay biến đâu mất?

Học bơi trên cạn và phản xạ “đóng băng”

Xem nhiều clip bạo lực, nhiều người đặt câu hỏi: Tại sao học sinh không chạy? Tại sao đám đông chỉ đứng nhìn?. Đây là những câu hỏi được nhiều người quan tâm. Thực tế cho thấy, sự thiếu hụt kỹ năng ứng phó trong các tình huống bạo lực học đường là một thực trạng đáng lo ngại.

Thứ nhất, dạy kỹ năng sinh tồn chỉ bằng lý thuyết hàn lâm. Có thể ví von, việc dạy kỹ năng phòng vệ cho học sinh giống như dạy bơi ở trên cạn. Giáo viên chủ yếu giảng bài, học sinh thảo luận tình huống giả định trên giấy. Phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá được đưa ra thảo luận sôi nổi nhưng cuối cùng cũng chỉ dừng lại đánh giá qua ở điểm số. Trong khi đó, chương trình mới khuyến khích giáo viên đánh giá linh hoạt bằng nhiều hình thức, nhưng nhìn chung giáo viên vẫn “trung thành” với hình thức kiểm tra trên giấy, xử lý tình huống trên giấy.

Hơn nữa, thời lượng dành cho thực hành quá ít (chỉ 15-30% lồng ghép). Cơ sở vật chất thiếu thốn cũng là hạn chế lớn khi diễn tập hay tạo tình huống giả định trên thực tế. Có thể học sinh biết đánh nhau là vi phạm nội quy nhà trường, là sai với nội dung thầy cô dạy; cũng có thể biết phải gọi người lớn nhưng chưa bao giờ được “tập trận” giả định. Vì vậy, khi tình huống thật xảy ra thì các em không có phản xạ phù hợp để tự vệ cũng là điều dễ hiểu.

Thứ hai, tư duy của não bộ bị “đóng băng”. Bởi vì thiếu rèn luyện kỹ năng thực tế nên khi bị bao vây đánh hội đồng, nỗi sợ hãi khiến các em không còn phản ứng tự vệ. Đa số các em (nạn nhân) yếu thế sẽ rơi vào trạng thái “đóng băng” não bộ, không thể suy nghĩ được điều gì mà chỉ biết ôm đầu và thu mình lại để tránh chấn thương. Bạo lực thường xảy ra nhanh và bất ngờ, có nhiều học sinh tham gia nên dễ gây ra trạng thái hoảng loạn. Khi đó, các em không còn khả năng vận dụng kỹ năng đã học để giải quyết tình huống như bỏ chạy hay chống trả.

Thứ ba, hiệu ứng đám đông và sự im lặng. Khi xem clip bạo hành, nhiều người nghĩ nhiều về hình ảnh những học sinh đứng xem, thậm chí vô tư quay clip. Trong số ấy, cũng có thể các em không can thiệp vì sợ hãi chứ không hẳn là vô cảm, cũng có thể do tâm lý sợ bị vạ lây, sợ mình sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo. Điều đó khiến các em chọn cách im lặng.

Cũng có khi trong số người chứng kiến, mỗi cá nhân đều nghĩ rằng người khác sẽ hành động. Suy nghĩ kiểu thụ động này bắt gặp nhiều trong học sinh, bởi các em thường được bao bọc quá kỹ lưỡng từ người thân. Từ đó dẫn đến sự trì hoãn và không tìm cách can thiệp kịp thời. Chương trình giáo dục phổ thông chỉ dạy cho các em đạo đức, nhân cách làm người tốt nhưng chưa bồi dưỡng đủ kỹ năng để làm người tốt một cách an toàn trong tình huống nguy hiểm.

Lời giải nào cho bài toán “hàn lâm”?

Để học sinh có phản ứng phù hợp hơn trước bạo lực học đường, nhà trường và thầy cô cần một cuộc cách mạng trong cách dạy nội dung giáo dục công dân và kỹ năng sống.

Thứ nhất, học phải đi đôi với hành. Triết lý giáo dục này nghe quen tai nhưng chưa chắc đã thực tiễn. Ban Giám hiệu cần đặt vấn đề trực tiếp với giáo viên bộ môn, chỉ đạo quyết liệt theo tinh thần giáo dục mới là giảm bớt các tiết giảng lý thuyết khô khan mà thay vào đó là các giờ học đóng vai, mô phỏng tình huống thực tế. Trong bối cảnh bạo lực ngày càng nguy hiểm, giáo viên hãy dạy các em cách bảo vệ vùng hiểm yếu, cách thoát thân khi bị túm áo, cách hô hoán hiệu quả thay vì chỉ dạy các em im lặng đứng nhìn.

Thứ hai, rèn luyện cho học sinh tâm lý vững vàng. Muốn làm được điều đó thì cần có các chuyên đề tâm lý học đường giúp học sinh hiểu về cảm xúc sợ hãi và cách kiểm soát nó. Chỉ khi giữ được bình tĩnh, các kỹ năng đã học mới có cơ hội được vận dụng một cách thông minh và sáng tạo.

Thứ ba, đào tạo giáo viên thực chiến. Nội dung giáo dục công dân hình thành cho học sinh rất nhiều kỹ năng, trong đó có kỹ năng phòng chống bạo lực học đường, hay ứng phó với tình huống nguy hiểm. Giáo viên dạy nội dung giáo dục công dân không thể chỉ là người truyền đạt kiến thức sách vở mà còn tổ chức cho học sinh thực chiến. Nhà trường cũng nên tạo tình huống bất ngờ và chân thật để kiểm tra kỹ năng của học sinh.

Chẳng hạn, tại trường trung học phổ thông của người viết đang giảng dạy, hệ thống còi báo cháy hú do lỗi kỹ thuật, học sinh vẫn ngồi học bình thường và thầy cô vẫn giảng dạy say sưa, dù đó là lần đầu còi báo cháy kêu inh ỏi. Điều này cho thấy sự thiếu sót nghiêm trọng về phản xạ tập thể. Do đó, giáo viên cần được trang bị kỹ năng thực tế để hướng dẫn học sinh, biến lớp học thành nơi rèn luyện kỹ năng chứ không chỉ là nơi học và trả bài kỹ năng trên trang giấy.

Tóm lại, bạo lực học đường diễn ra ngày càng phức tạp, không giống như những tình huống trong sách giáo khoa. Học sinh được trang bị nhiều kỹ năng cần thiết từ lớp 1 đến lớp 12 nhưng chưa thể vận dụng để giải quyết tình huống là điều đáng quan ngại. Đã đến lúc cần xem lại việc dạy kỹ năng sống, đánh giá học sinh qua việc giải quyết tình huống thực tế thay vì trên giấy. Điều quan trọng nhất là làm sao học nội dung giáo dục công dân, kỹ năng sống là trang bị cho các em chiếc “áo giáp” thực chiến trước những tình huống đã được học.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Trần Văn Tâm

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/hoc-ky-nang-tu-lop-1-den-12-tai-sao-nhieu-hoc-sinh-bi-danh-chi-biet-om-dau-chiu-tran-post256151.gd