Học bổng cấp cho nghiên cứu sinh là 'đầu tư chiến lược', không phải 'trợ cấp tiêu dùng'
Lãnh đạo một số trường đại học, viện nghiên cứu cho rằng học bổng là 'đầu tư chiến lược', không phải 'trợ cấp tiêu dùng'.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mỗi năm cả nước có khoảng 5.000-7.000 chỉ tiêu tuyển sinh tiến sĩ, song tỷ lệ tuyển đạt thường không vượt quá 50%. Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao, tại Điểm c, Khoản 2, Điều 38, Luật Giáo dục đại học sửa đổi quy định Cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học nêu rõ ngân sách nhà nước bảo đảm hoặc hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực trong một số ngành, lĩnh vực theo cơ chế sau: "Cấp học bổng đối với người học chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ, người học các ngành kỹ thuật then chốt, công nghệ chiến lược, công nghệ lõi".
Nội dung này nhận được rất nhiều sự ủng hộ của lãnh đạo trường đại học, viện nghiên cứu. Tuy nhiên, cơ chế giám sát và phân chia ngân sách ra sao vẫn cần được thảo luận.
Chi phí học tập vẫn là gánh nặng với nghiên cứu sinh
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra, thực trạng tuyển sinh tiến sĩ đạt dưới 50% chỉ tiêu trong nhiều năm gần đây cho thấy tín hiệu đáng lưu ý. Tuy nhiên, đây cũng là xu thế mà nhiều quốc gia trong khu vực từng trải qua khi yêu cầu chất lượng đào tạo tiến sĩ ngày càng cao.
"Tình trạng tuyển sinh tiến sĩ thấp xuất phát từ ba nhóm nguyên nhân chủ yếu. Trước hết, áp lực công việc cùng thu nhập thực tế của nhóm người học tiềm năng, nhất là giảng viên trẻ và cán bộ nghiên cứu, khiến họ khó sắp xếp thời gian để toàn tâm cho hoạt động nghiên cứu chuyên sâu.
Bên cạnh đó, chi phí đào tạo tiến sĩ vẫn là gánh nặng không nhỏ, trong khi các cơ chế hỗ trợ còn hạn chế, buộc nhiều người có năng lực phải cân nhắc giữa việc học tập và sinh kế.
Ngoài ra, các yêu cầu về chuẩn đầu ra theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là công bố quốc tế, ngày càng được nâng cao. Đây là tín hiệu tích cực nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo, song cũng đòi hỏi người học phải đầu tư lớn về thời gian, năng lực và nguồn lực.
Vì vậy, việc tuyển sinh chưa đạt kỳ vọng không hẳn phản ánh sự “mất hấp dẫn” của bậc học tiến sĩ, mà cho thấy những đòi hỏi ngày càng khắt khe về chất lượng đào tạo, trong khi cơ chế hỗ trợ để thu hút nhân lực tinh hoa vẫn chưa tương xứng" - thầy Lý bày tỏ.

Tiến sĩ Trần Đình Lý – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên) cũng nhận xét, bối cảnh hiện nay cho thấy “nút thắt” tài chính trong đào tạo tiến sĩ là rất rõ ràng.
Quy mô đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện chỉ chiếm khoảng 0,6% tổng quy mô giáo dục đại học, trong khi mức trung bình của các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Liên minh châu Âu EU vào khoảng 4%, tức thấp hơn chuẩn chung của thế giới khoảng 6-7 lần.
Nhiều thống kê gần đây cho thấy, dù các cơ sở đào tạo đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp, tuyển sinh tiến sĩ trong nhiều năm vẫn không đạt chỉ tiêu; có giai đoạn tỷ lệ chỉ đạt khoảng 25-40%, những năm gần đây có cải thiện nhưng tại nhiều nơi vẫn chưa vượt quá 60% chỉ tiêu.
Trong khi đó, chi phí cơ hội của việc theo học tiến sĩ là rất lớn, bởi người học phải hi sinh nguồn thu nhập ổn định trong nhiều năm, đặc biệt ở nhóm tuổi 30-40, cũng là giai đoạn gánh nặng gia đình cao nhất.
Mức hỗ trợ hiện hành của một số chương trình, như học bổng đến 7 triệu đồng/tháng dành cho nghiên cứu sinh các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược, dù là tín hiệu tích cực nhưng vẫn khá khiêm tốn nếu so với chi phí sinh hoạt tại các đô thị lớn. Chính vì vậy, phần lớn nghiên cứu sinh buộc phải vừa làm việc toàn thời gian, vừa thực hiện luận án, khó có điều kiện toàn tâm cho nghiên cứu khoa học.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: ICTU.
Chính sách học bổng toàn phần tạo động lực cho nhân lực trình độ cao
Tiến sĩ Trần Đình Lý nhận định, chính sách hỗ trợ học bổng toàn phần cho nghiên cứu sinh rất đúng, rất trúng và cũng hết sức kịp thời trong bối cảnh Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ nghiên cứu chất lượng cao, đặc biệt ở các lĩnh vực then chốt như STEM, công nghệ sinh học, nông nghiệp - môi trường và năng lượng.
Việc hỗ trợ học bổng toàn phần cho nghiên cứu sinh không chỉ giúp tháo gỡ nút thắt tài chính - vốn là rào cản lớn nhất đối với người học tiến sĩ - mà còn tạo động lực mạnh mẽ để những người thực sự có năng lực toàn tâm, toàn ý cho nghiên cứu khoa học.
Đồng thời, chính sách này góp phần nâng cao vị thế các chương trình đào tạo tiến sĩ của Việt Nam, tăng sức hấp dẫn đối với người học trong nước và quốc tế, cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học, qua đó thúc đẩy đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và hạ tầng phòng thí nghiệm.
Khi được triển khai hiệu quả, chính sách này sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hệ sinh thái nghiên cứu và đổi mới sáng tạo của quốc gia.
Cùng bàn luận về chủ đề này, Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn - Viện trưởng, Viện Đào tạo quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho hay, việc cấp học bổng toàn phần cho người học trình độ tiến sĩ là một giải pháp hiệu quả giúp thúc đẩy xây dựng đội ngũ nhân lực trình độ cao trong nước và nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút nghiên cứu sinh quốc tế đến học tập và nghiên cứu tại Việt Nam.
Ở nhiều quốc gia, nghiên cứu sinh tiến sĩ được ưu tiên miễn học phí, hỗ trợ sinh hoạt phí và tham gia các nhóm nghiên cứu mạnh. Việc áp dụng chính sách tương tự tại Việt Nam sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống đào tạo tiến sĩ trong nước.
Khi được triển khai đúng cách, chính sách này chắc chắn sẽ trở thành động lực quan trọng để gia tăng cả số lượng lẫn chất lượng nghiên cứu sinh.
Chính sách này có thể thu hút các ứng viên giỏi từ cơ quan, doanh nghiệp, viện nghiên cứu và từ chính đội ngũ giảng viên đại học - những nhóm vốn gặp nhiều rào cản do áp lực kinh tế. Đồng thời, sự đầu tư mạnh mẽ từ Nhà nước cũng tạo tín hiệu tích cực, thúc đẩy các trường đại học nâng cao chuẩn đào tạo tiến sĩ, phát triển nhóm nghiên cứu, tăng cường công bố khoa học quốc tế, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa trong toàn hệ thống.

Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn – Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa cũng nhận xét: "Thực tiễn quốc tế cho thấy, ở những quốc gia coi nghiên cứu sinh là lực lượng “nhà nghiên cứu trẻ” và bảo đảm mức hỗ trợ tài chính tối thiểu, chất lượng và hiệu quả đào tạo tiến sĩ thường cao hơn.
Tại nhiều nước thuộc OECD, phần lớn nghiên cứu sinh trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật được tài trợ thông qua học bổng, hợp đồng nghiên cứu hoặc các vị trí trợ giảng, trợ lý nghiên cứu, thay vì phải tự túc hoàn toàn. Cách tiếp cận này giúp họ dành toàn bộ thời gian cho nghiên cứu và tạo ra nhiều công bố khoa học, sáng chế cũng như các giải pháp ứng dụng.
Ngay tại Việt Nam, một số cơ sở đào tạo đã chủ động triển khai những mô hình tiệm cận với học bổng toàn phần.
Đại học Quốc gia Hà Nội xây dựng các chương trình học bổng dành cho nghiên cứu sinh và thực tập sau tiến sĩ, với mức hỗ trợ tối đa lên tới 100 triệu đồng mỗi năm, kèm theo chính sách miễn hoặc giảm học phí.
Một số trường đại học như Đại học Phenikaa hay Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cũng công khai chính sách miễn 100% học phí, chi trả thu nhập hằng tháng cho nghiên cứu sinh toàn thời gian, đồng thời gắn trách nhiệm nghiên cứu, công bố quốc tế và tham gia các đề tài, dự án.
Kết quả bước đầu cho thấy, khi điều kiện tài chính được bảo đảm và đi kèm với các yêu cầu học thuật rõ ràng, có thể thu hút được những ứng viên chất lượng cao và từng bước hình thành văn hóa “làm tiến sĩ như một vị trí công việc”, thay vì chỉ coi đó là việc “đi học thêm” - thầy Nghĩa bày tỏ.
Theo thầy Nghĩa, cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học trong Luật Giáo dục đại học sửa đổi được đánh giá là phù hợp với định hướng chiến lược phát triển của quốc gia. Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định rõ mục tiêu của chính sách là giúp nghiên cứu sinh yên tâm học tập và nghiên cứu toàn thời gian, đồng thời tăng sức hấp dẫn để thu hút cả nguồn nhân lực trong nước lẫn quốc tế đến làm tiến sĩ tại Việt Nam.
Trước đó, Thông báo số 45-TB/TGV ngày 30/9/2025 của Tổ Giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng đã đặt ra mục tiêu đến giai đoạn 2026–2027, 100% nghiên cứu sinh tại bốn đại học hàng đầu được miễn học phí và cấp học bổng. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển mô hình liên kết “ba nhà”.
Cần tiêu chí phù hợp để bảo đảm “đúng người, đúng chỗ”
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa cho rằng, học bổng toàn phần hoàn toàn có thể trở thành một “động lực quan trọng” để tăng cả số lượng lẫn chất lượng đào tạo tiến sĩ, với điều kiện được thiết kế như một khoản đầu tư có ràng buộc và có đánh giá kết quả, chứ không phải chỉ là hỗ trợ phúc lợi cho người học.

Ảnh minh họa: Website Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Để chính sách phát huy tối đa hiệu quả, có ba nhóm vấn đề cần thiết kế kỹ: nguyên tắc; tiêu chí/điều kiện và cơ chế tài chính và giám sát.
Từ góc độ chính sách công, ngân sách nhà nước dành cho học bổng tiến sĩ nên được xem là một khoản đầu tư chiến lược vào nguồn nhân lực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, chứ không phải là trợ cấp tiêu dùng.
Nhiều nghiên cứu của OECD đã chỉ ra rằng đội ngũ tiến sĩ là lực lượng cốt lõi trong hệ sinh thái nghiên cứu, phát triển và sáng tạo của mỗi quốc gia. Vì vậy, học bổng cần được gắn với các nhiệm vụ khoa học – công nghệ cụ thể, trong đó mỗi nghiên cứu sinh nhận học bổng toàn phần nên tham gia ít nhất một đề tài, dự án hoặc nhiệm vụ ứng dụng rõ ràng, qua đó biến học bổng thành một dạng “hợp đồng nghiên cứu có hỗ trợ đào tạo” thay vì chỉ hỗ trợ sinh hoạt.
Việc phân bổ học bổng cũng cần gắn với nhu cầu nhân lực của hệ thống, ưu tiên các ngành, lĩnh vực chiến lược như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, chuyển đổi số, hạ tầng số, an ninh mạng, năng lượng, nông nghiệp công nghệ cao, y sinh, giáo dục và khoa học cơ bản, đồng thời vẫn dành một tỷ lệ phù hợp cho khoa học xã hội, nhân văn và giáo dục – những lĩnh vực tạo nền tảng cho cải cách thể chế và chính sách.
Bên cạnh đó, học bổng cần đi kèm trách nhiệm và cam kết phục vụ, theo đó người nhận học bổng cam kết làm việc trong một thời gian tối thiểu tại các trường đại học, viện nghiên cứu, bệnh viện hoặc doanh nghiệp trong nước; trường hợp không thực hiện cam kết vì lý do chủ quan thì phải hoàn trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí theo hợp đồng.
Theo thầy Nghĩa, để bảo đảm “đúng người, đúng chỗ”, các tiêu chí và điều kiện cần được thiết kế phù hợp với năng lực của chương trình và cơ sở đào tạo cũng như của nghiên cứu sinh. Chỉ những chương trình tiến sĩ có đội ngũ hướng dẫn đạt chuẩn về công bố quốc tế, kinh nghiệm chủ nhiệm đề tài và hướng dẫn nghiên cứu sinh, đồng thời có năng lực nghiên cứu thực chứng như phòng thí nghiệm, phòng studio, trung tâm dữ liệu hoặc cơ sở thực địa mới được phân bổ chỉ tiêu học bổng toàn phần.
Chỉ tiêu học bổng cần gắn với hiệu quả đầu ra, thể hiện qua số lượng và chất lượng công bố quốc tế, sáng chế, giải pháp chuyển giao của nghiên cứu sinh, cũng như mức độ tham gia các nhiệm vụ phục vụ cộng đồng, doanh nghiệp và địa phương.
Những cơ sở đào tạo không đạt chuẩn hoặc có tiền lệ quản lý lỏng lẻo, phát sinh các luận án gây dư luận, cần tạm thời không được cấp chỉ tiêu học bổng toàn phần hoặc chỉ triển khai ở quy mô thí điểm rất hạn chế, kèm cơ chế giám sát chặt chẽ.
Đối với nghiên cứu sinh, điều kiện đầu vào cần bảo đảm trình độ học tập từ khá, giỏi trở lên, có thành tích nghiên cứu phù hợp với từng ngành và có đề cương nghiên cứu khả thi, gắn với hướng nghiên cứu của nhóm hoặc đề tài.
Học bổng toàn phần chỉ nên áp dụng cho nghiên cứu sinh toàn thời gian, không đảm nhiệm các công việc hành chính hoặc kinh doanh toàn thời gian bên ngoài; một số hoạt động có trả công như trợ giảng, tư vấn hoặc tham gia dự án có thể được chấp nhận, nhưng phải nằm trong hệ sinh thái nghiên cứu – đào tạo của trường, viện hoặc doanh nghiệp đối tác.
Việc hưởng học bổng cần được đánh giá định kỳ theo từng giai đoạn từ sáu đến mười hai tháng, gắn với các mốc cụ thể như báo cáo chuyên đề, bài báo, sản phẩm nghiên cứu hoặc chương luận án; nếu không đạt yêu cầu, học bổng sẽ bị giảm hoặc dừng, thậm chí chấm dứt tư cách nghiên cứu sinh trong trường hợp không có tiến bộ, qua đó khuyến khích nỗ lực liên tục thay vì nhận hỗ trợ trọn khóa mà thiếu động lực phấn đấu.
Về nguồn kinh phí, thầy Nghĩa cho hay: "Theo tôi nên thiết kế theo hướng đa kênh và đồng tài trợ. Ngân sách nhà nước đóng vai trò nguồn lực lõi, bảo đảm cho các ngành khoa học nền tảng và lĩnh vực trọng điểm, đồng thời có thể kết nối quỹ học bổng tiến sĩ với các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển vùng khó khăn.
Cùng với đó là sự tham gia đồng tài trợ của các cơ sở giáo dục đại học, khi nhiều trường đã chủ động sử dụng một phần kinh phí từ hoạt động nghiên cứu, dịch vụ khoa học, phần kinh phí quản lý của đề tài, dự án và nguồn xã hội hóa để chi trả học bổng hoặc thu nhập cho nghiên cứu sinh; luật khuyến khích và tạo cơ chế linh hoạt để các trường được sử dụng hiệu quả các nguồn thu hợp pháp cho quỹ học bổng tiến sĩ.
Doanh nghiệp và địa phương cần trở thành hạt nhân trong mô hình “3 nhà”, đặc biệt với các đề tài gắn với bài toán thực tiễn như ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất, chuyển đổi số chính quyền, nông nghiệp thông minh hoặc du lịch số, trong đó doanh nghiệp và địa phương cùng tham gia tài trợ học bổng và được hưởng quyền sử dụng kết quả nghiên cứu, ưu tiên tuyển dụng hoặc ký kết hợp đồng tư vấn.
Bên cạnh đó, các nguồn lực quốc tế như Erasmus+, quỹ học bổng song phương và các dự án ODA về giáo dục – khoa học hoàn toàn có thể được tích hợp thành những nhánh riêng trong chương trình học bổng tiến sĩ quốc gia".
Theo thầy Nghĩa, nếu chỉ nhìn học bổng toàn phần như một chế độ đãi ngộ nhằm “đối xử tốt với người học”, chính sách rất dễ tạo áp lực lên ngân sách mà không cải thiện được chất lượng. Ngược lại, nếu học bổng chỉ được cấp cho các chương trình và cơ sở đào tạo đạt chuẩn, đồng thời chỉ trao cho những nghiên cứu sinh có năng lực và cam kết rõ ràng, thì chính sách sẽ đi đúng trọng tâm.
Khi đó, học bổng được gắn chặt với nhiệm vụ khoa học – công nghệ, với mô hình hợp tác ba nhà và với trách nhiệm phục vụ sau tốt nghiệp. Trong điều kiện ấy, chính sách học bổng toàn phần hoàn toàn có thể trở thành một đòn bẩy chiến lược, tạo sinh khí mới cho đào tạo tiến sĩ và góp phần nâng cao chất lượng khoa học, công nghệ cũng như giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian tới.

Ảnh minh họa: Website Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh).
Về vấn đề này, Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn bày tỏ: "Để chính sách học bổng toàn phần thật sự hiệu quả và bền vững, chúng ta cần có tiêu chí rõ ràng, cơ chế giám sát minh bạch và cách thức phân bổ kinh phí phù hợp.
Trước hết, học bổng tiến sĩ nên được phân bổ theo nhu cầu phát triển của quốc gia, tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên, các chương trình trọng điểm, các nhiệm vụ khoa học – công nghệ cấp Nhà nước hoặc những ngành công nghệ, đổi mới sáng tạo mà Việt Nam đang thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Đây là cách để bảo đảm nguồn học bổng thực sự đóng góp vào chiến lược phát triển dài hạn của đất nước.
Bên cạnh đó, đối tượng nhận học bổng cũng cần được chọn lọc kỹ lưỡng và có định hướng rõ ràng. Người học khi đăng ký nhận học bổng của Nhà nước cần cam kết phục vụ sau đào tạo, tham gia vào nhiệm vụ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ hoặc công tác tại đơn vị được phân công. Điều này giúp đảm bảo hiệu quả đầu tư và tránh lãng phí nguồn lực ngân sách.
Cuối cùng, học bổng nên được thiết kế linh hoạt theo nhiều mức khác nhau, bao gồm học bổng toàn phần cho các lĩnh vực đặc biệt ưu tiên hoặc ứng viên xuất sắc, học bổng bán phần hoặc học bổng theo tiến độ nghiên cứu, cũng như các dạng học bổng gắn với đề tài, dự án của giáo sư hướng dẫn. Cách tiếp cận đa tầng này sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho nghiên cứu sinh và phát huy tốt nhất nguồn lực Nhà nước.
Về nguồn kinh phí, bên cạnh ngân sách Nhà nước, có thể huy động thêm từ doanh nghiệp, quỹ khoa học – công nghệ, quỹ đổi mới sáng tạo, hoặc mô hình liên kết giữa cơ sở đào tạo – viện nghiên cứu – doanh nghiệp. Những nguồn lực này giúp giảm áp lực ngân sách, đồng thời tăng khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Tóm lại, để chính sách học bổng toàn phần phát huy hiệu quả cao nhất, chúng ta cần một cơ chế có chọn lọc – có cam kết – có giám sát – và có trách nhiệm giải trình, đảm bảo rằng mỗi suất học bổng thực sự tạo ra giá trị cho người học và cho sự phát triển của đất nước".
Tiến sĩ Trần Đình Lý cho rằng, đào tạo tiến sĩ cần yêu cầu nghiên cứu sinh cam kết học tập, nghiên cứu toàn thời gian hoặc bán thời gian có kiểm soát. Đầu ra phải rõ ràng, thể hiện qua công bố quốc tế, sản phẩm nghiên cứu hoặc đóng góp thực chất cho doanh nghiệp và địa phương. Nghiên cứu sinh cần đạt chuẩn ngoại ngữ, năng lực nghiên cứu và có ràng buộc làm việc trong lĩnh vực ưu tiên sau đào tạo. Chính sách phải đủ mạnh nhưng đi kèm kiểm soát chất lượng chặt chẽ.
Cũng theo thầy Lý, để nâng cao hiệu quả đào tạo tiến sĩ cần tăng đầu tư cho phòng thí nghiệm trọng điểm và trung tâm nghiên cứu, coi nghiên cứu sinh là lực lượng nghiên cứu chủ lực, đẩy mạnh liên kết doanh nghiệp, cải thiện điều kiện nhà ở và môi trường học thuật, đồng thời xây dựng cơ chế sau tiến sĩ nhằm giữ chân nhân lực chất lượng cao.





























