Hiện thực hóa định hướng phát triển điện hạt nhân an toàn, hiệu quả và bền vững

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ và chuyển dịch năng lượng sạch, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) không chỉ là một yêu cầu cấp thiết, mà còn là 'kim chỉ nam' cho việc sử dụng năng lượng nguyên tử an toàn, hiệu quả, hiện thực hóa định hướng phát triển điện hạt nhân và vì mục đích hòa bình.

Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) với trọng tâm chính sách là bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân phục vụ ứng dụng năng lượng nguyên tử vì hòa bình. (Ảnh: BỘ KH&CN)

Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) với trọng tâm chính sách là bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân phục vụ ứng dụng năng lượng nguyên tử vì hòa bình. (Ảnh: BỘ KH&CN)

Thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển năng lượng nguyên tử

Sáng 27/6, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Sau hơn 15 năm thi hành, Luật Năng lượng nguyên tử đã trở thành nền tảng pháp lý vững chắc, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, tổ chức quốc tế tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực tại Việt Nam.

Luật đã góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên tử, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các ngành, các cấp và người dân về ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, bối cảnh mới đặt ra yêu cầu cấp thiết phải cập nhật, hoàn thiện để phù hợp xu hướng phát triển khoa học và công nghệ, bảo đảm và đáp ứng các về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đang được đánh giá là giải pháp quan trọng.

Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) được xây dựng với mục đích tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về năng lượng nguyên tử, thống nhất với các văn bản khác có liên quan và đáp ứng yêu cầu thực tiễn; xây dựng cơ sở pháp lý bảo đảm sự đầy đủ, toàn diện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về năng lượng nguyên tử. Đồng thời, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân; phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử; thực hiện cam kết, nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam; tăng cường hợp tác quốc tế; năng lượng nguyên tử góp phần tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) được xây dựng theo hướng thể hiện rõ vai trò “kiến tạo phát triển” của Nhà nước trong lĩnh vực đòi hỏi an toàn cao, yêu cầu công nghệ phức tạp.

Trong quá trình xây dựng Luật, cơ quan chủ trì soạn thảo đã tập trung rà soát, lược bỏ các quy định chồng chéo, bổ sung những nội dung còn thiếu so với yêu cầu thực tiễn. Đồng thời, tích cực tham vấn ý kiến từ các bộ, ngành, nhằm bảo đảm tính đồng bộ, khả thi và phù hợp với các cam kết quốc tế. Nội dung Luật được sửa đổi theo hướng phân định rõ ràng phạm vi điều chỉnh, trách nhiệm của các cơ quan liên quan; tích hợp, liên thông các thủ tục hành chính; thống nhất chỉ một đầu mối thực hiện quản lý.

Hướng tới phát triển điện hạt nhân an toàn, hiệu quả và bền vững

Trọng tâm chính sách là định hướng phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và phát triển bền vững đất nước. Chính sách bao trùm toàn diện từ đầu tư, thu hút các nguồn lực; hoàn thiện hạ tầng và tăng cường năng lực bảo đảm an toàn, an ninh, hạt nhân, nghiên cứu phát triển công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế và nâng cao nhận thức cộng đồng.

Một trong những điểm đáng chú ý trong Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) là Nhà nước bảo đảm ngân sách xây dựng và vận hành mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia; đầu tư xây dựng địa điểm lưu giữ, xử lý, chôn cất chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng cấp quốc gia. Đây là bước đi thiết yếu, thể hiện tầm nhìn dài hạn về bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân, yếu tố nền tảng cho mọi ứng dụng trong lĩnh vực này.

Song song với đó, Luật cũng mở rộng khả năng thu hút vốn, khuyến khích khu vực tư nhân và các đối tác quốc tế tham gia đầu tư, phát triển trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Điều này không chỉ phù hợp Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, mà còn phản ánh thực tế về sự tham gia của các tổ chức cá nhân ứng dụng rộng rãi năng lượng nguyên tử trong các ngành kinh tế-xã hội như: y tế, công nghiệp, nông nghiệp, tài nguyên và môi trường.

Một vấn đề then chốt được đặt ra là bài toán về nhân lực chất lượng cao, đặc biệt cho các dự án điện hạt nhân trong tương lai. Việc đưa vào Luật các cơ chế ưu đãi trong đào tạo, thu hút, trọng dụng chuyên gia, nhà khoa học sẽ là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững. Cùng với đó là sự đầu tư đồng bộ vào cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại nhằm tạo nền tảng vững chắc cho nghiên cứu-đào tạo và làm chủ công nghệ.

Việc sửa đổi Luật năng lượng nguyên tử không chỉ đơn thuần là hoàn thiện kỹ thuật lập pháp, mà là bước ngoặt thể chế quan trọng.

Đáng chú ý, chính sách khuyến khích chuyển giao, tăng cường năng lực chế tạo và nội địa hóa trang thiết bị cho thấy tầm nhìn chiến lược cùng với chính sách bảo đảm ngân sách cho nghiên cứu khoa học và công nghệ, ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng khoa học và đào tạo nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là sự thể chế hóa trực tiếp Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Đặc biệt, chính sách phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi tại địa phương có cơ sở hạt nhân, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin và bảo đảm phát triển bền vững ngành năng lượng nguyên tử.

Bên cạnh đó, Luật đã luật hóa nhiều điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, phù hợp hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Việc tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập sâu rộng sẽ giúp Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với các thành tựu công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý hiện đại, đồng thời nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và chuyên gia.

Một điểm nhấn quan trọng là chính sách truyền thông-tuyên truyền về năng lượng nguyên tử được đưa vào Luật trở thành một yếu tố cấu thành hệ sinh thái an toàn. Việc xây dựng văn hóa an toàn, văn hóa an ninh hạt nhân là điều kiện cần thiết để phát triển một ngành đặc thù, tiềm ẩn rủi ro cao và đòi hỏi sự đồng thuận xã hội rất lớn.

Có thể khẳng định, việc sửa đổi Luật năng lượng nguyên tử không chỉ đơn thuần là hoàn thiện kỹ thuật lập pháp, mà là bước ngoặt thể chế quan trọng. Đây là sự cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng, thể hiện vai trò dẫn dắt của Nhà nước, khơi thông nguồn lực và xác lập nền tảng phát triển thực chất, bền vững cho ngành năng lượng nguyên tử. Về lâu dài, đây chính là nền tảng để Việt Nam làm chủ công nghệ hạt nhân, bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển công nghiệp công nghệ cao và khẳng định vị thế quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế.

BÍCH LIÊN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/hien-thuc-hoa-dinh-huong-phat-trien-dien-hat-nhan-an-toan-hieu-qua-va-ben-vung-post889942.html
Zalo