Hậu quả pháp lý khi giao kết hợp đồng dân sự giả tạo
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa nêu rõ khái niệm thế nào là hợp đồng dân sự (HĐDS) giả tạo. Tuy nhiên, căn cứ vào giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo tại Điều 124 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 có thể hiểu, khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự đó vô hiệu do giả tạo.
Luật sư Lê Hiếu - Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, HĐDS giả tạo là một loại HĐDS được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác. HĐ giả tạo không có giá trị pháp lý và không phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên.
Đồng thời, HĐ giả tạo sẽ chịu sự điều chỉnh pháp lý quy định tại Điều 124 BLDS 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.
Theo đó, khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của BLDS 2015 hoặc luật khác có liên quan.
Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Như vậy, HĐDS giả tạo không phải là ý chí thực của hai bên, được thiết lập trên cơ sở một quan hệ dân sự khác trước đó và nhằm che giấu một giao dịch khác nên không có hiệu lực pháp luật, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên do giả tạo.
HĐDS giả tạo được xác lập về mặt hình thức nhưng không phải là ý chí thực của các bên; các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo nội dung HĐ đã ký kết; việc ký kết HĐ này chỉ để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ nào đó của một HĐ khác, che giấu bởi một giao dịch khác thì đương nhiên HĐ này không phát sinh hiệu lực.
Cũng theo Luật sư Hiếu, hiện nay, tình trạng các bên lập HĐDS giả tạo ngày càng nhiều, đặc biệt là trong các giao dịch mua bán, vay vốn, chuyển nhượng, phổ biến rơi vào hai trường hợp.
Một là, giao kết HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá trị thấp hơn so với giá trị thực tế khi mua bán. Theo quy định của pháp luật, thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 2% giá trị chuyển nhượng ghi trên HĐ chuyển nhượng. Tuy nhiên, nhằm mục đích giảm chi phí về thuế phải đóng, các bên đã thỏa thuận ký kết một HĐ khác với giá chuyển nhượng thấp hơn so với giá trị thực tế (HĐ giả tạo).
HĐ giả tạo này được sử dụng trong việc kê khai thuế và làm thủ tục sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhằm giảm, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, phí đối với Nhà nước.
Việc ký kết loại HĐ này tiềm ẩn hậu quả pháp lý: Luật Quản lý thuế quy định rõ việc người nộp thuế có nghĩa vụ khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế… Điều đó có nghĩa là, khi người bán và người mua cố tình kê khai giá “ảo” trong HĐ chuyển nhượng để “né” thuế thì hành vi đó là vi phạm pháp luật.
Hành vi này có thể bị tiến hành truy thu, xử phạt hành chính, thậm chí xử hình sự về tội trốn thuế theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên bán còn có thể gặp rủi ro lớn nếu gặp phải trường hợp bên mua không hoàn trả đúng số tiền thực tế đã thỏa thuận cho bên bán dẫn đến tình trạng kiện tụng, mất thời gian và công sức của các bên.
Hai là, vay tiền/tài sản dưới hình thức chuyển nhượng/mua bán tài sản. Trong quan hệ vay mượn tài sản, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì bên cho vay yêu cầu bên vay nợ phải sang tên bất động sản của mình cho bên cho vay, nếu đến thời điểm trả nợ mà bên đi vay không trả được nợ thì bên cho vay có quyền định đoạt bất động sản đó để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Hoặc trong trường hợp HĐ vay tài sản, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì bên cho vay yêu cầu bên đi vay phải sang tên cổ phần doanh nghiệp của mình cho bên cho vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ.
Trong các giao dịch này thì HĐ vay tài sản là quan hệ dân sự có thật, có trước và được pháp luật bảo vệ, còn việc chuyển nhượng bất động sản hoặc sang tên cổ phần chỉ là giả tạo (các bên không có ý chí, không có mục đích mua bán, chuyển nhượng). Các HĐ mua bán, chuyển nhượng này là không có thật, chỉ nhằm che giấu cho giao dịch vay tài sản, bản chất các bên hướng đến chính là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, không phải ý chí mua bán, chuyển nhượng thực giữa các bên.
Trên thực tế, các đối tượng cho vay thường nhắm đến những cá nhân có nhu cầu vay cấp thiết và thiếu hiểu biết pháp luật để ký kết các HĐ giả tạo. Mặc dù mục đích theo bên cho vay nói với bên vay là để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nhưng thực chất là để chiếm đoạt tài sản khi bên vay không thanh toán được khoản vay hoặc vi phạm nghĩa vụ theo HĐ, thông qua sự thiếu hiểu biết của bên vay, bên cho vay sẽ đề nghị ký HĐ chuyển nhượng quyền tài sản để bảo đảm nghĩa vụ trả khoản vay.
Những HĐ này đa số là HĐ chuyển nhượng giả tạo nhằm che đậy giao dịch vay mượn tài sản. Trong đó, thông thường sẽ có điều kiện nếu người vay tiền vi phạm thỏa thuận về thời gian trả lãi, trả nợ gốc thì mặc định tài sản này được chuyển dịch sang tên người cho vay. Ban đầu, người đi vay không có ý định này hoặc không đọc kỹ và không am hiểu pháp luật, nên cũng không thể lường trước hậu quả xảy ra nên vẫn thực hiện việc ký HĐ giả tạo.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ký hết HĐ giả tạo như: Do người vay tiền muốn nhanh chóng nhận được tiền để giải quyết kịp thời khó khăn, cấp bách nên đồng ý ký vào HĐ giả tạo; thiếu hiểu biết pháp luật, tin tưởng vào đối phương không lấy tài sản của mình, mà chỉ bảo đảm tiền vay, không đọc kỹ HĐ, có ý nghĩ tài sản mình đang quản lý là còn của mình; người vay tiền ngại đến ngân hàng vay tiền vì thủ tục ngân hàng cho vay rườm rà; người cho vay nặng lãi, tổ chức tín dụng đen muốn chiếm đoạt tài sản của người đi vay.