Hát kể khan, kho tàng văn hóa sống của người M'nông giữa đại ngàn Tây Nguyên

Giữa núi rừng Đắk Nông, khi đêm buông xuống và ánh lửa bập bùng soi rọi từng gương mặt người M'nông, một giọng kể vang lên – trầm khàn, tha thiết, dẫn dắt người nghe vào những huyền thoại xa xưa. Ấy là hát kể khan, một hình thức nghệ thuật độc đáo kết hợp giữa kể chuyện và hát ngẫu hứng, không chỉ lưu giữ lịch sử, tri thức, phong tục tập quán, mà còn chuyên chở linh hồn văn hóa của cả một cộng đồng. Trong thời đại hiện nay, khi nhịp sống hiện đại đang lấn át những giá trị truyền thống, khan vẫn bền bỉ tồn tại như tiếng nói của đại ngàn, âm vang của tổ tiên vọng về từ quá khứ.

Hằng đêm, bên bếp lửa hồng, các già làng người M'nông vẫn hát khan cho con cháu nghe. Ảnh: Việt Bắc

Hằng đêm, bên bếp lửa hồng, các già làng người M'nông vẫn hát khan cho con cháu nghe. Ảnh: Việt Bắc

Khúc khan giữa đại ngàn

Mỗi lần đặt chân lên mảnh đất biên giới tỉnh Đắk Nông, giữa những đồi núi trập trùng, giữa tiếng gió thì thầm qua rừng khộp, tôi lại mong được nghe một khúc hát kể khan của người M'nông. Ấy là một thứ âm thanh lạ lùng và quyến rũ, không chỉ là tiếng hát, mà còn là lời kể; không chỉ là câu chuyện, mà còn là linh hồn của cả một dân tộc.

Theo con tim mách bảo, tôi tìm đến bon Bu Đrăng, xã biên giới Quảng Trực, huyện Tuy Đức vào một ngày cuối tháng 5 khi đã bắt đầu mùa mưa nên thỉnh thoảng những cơn mưa bất chợt, ập xuống trắng núi rừng. Đêm ấy, già làng Điểu K'lứt (sinh năm 1930), một nghệ nhân hát kể khan nổi tiếng của người M'nông đã nhận lời thắp lửa, mở lời. Cả bon quây quần bên đống lửa hồng, mắt trẻ con long lanh, người lớn rì rầm chào hỏi, còn tôi háo hức như sắp được chứng kiến một nghi lễ linh thiêng. Già Điểu K'lứt mặc bộ khố thổ cẩm đã bạc màu, vai khoác tấm choàng vải dệt tay, đôi bàn chân trần chai sạn như đã đi qua ngàn rẫy. Khi đống lửa đỏ rực, già cất tiếng. Giọng ông không cao vút mà khàn đục, lúc trầm, lúc bổng, lúc rền như gió rít qua đá, khi lại lảnh lót như suối nguồn giữa đại ngàn.

Câu chuyện hiện ra dần dần qua từng lời kể, từng nốt hát, như tranh thêu chầm chậm bung chỉ. Già kể về tổ tiên người Mnông vượt rừng, băng suối lập bon, về những vị anh hùng như Dam Du, Dam Diêng cưỡi voi trắng đánh giặc, về thần núi, thần sông ban cho con người lúa tốt, rẫy xanh. Câu chuyện dài dằng dặc, có đoạn già ngừng lại, nhấp ngụm rượu cần rồi mới tiếp. Mỗi lần dứt một đoạn, người nghe đều ồ lên, gật gù, ánh mắt như chạm được vào dĩ vãng.

Khi đống lửa đã tàn, đêm đã bước qua ngày mới và câu chuyện qua lời kể khan cũng vừa dứt, tôi hỏi già Điểu K'lứt: “Sao già nhớ được nhiều chuyện như vậy?”. Già cười hiền, chỉ vào ngực mình: “Khan nằm trong trái tim. Hồi nhỏ nghe già làng kể, lớn lên đi rẫy, đi rừng cũng hát một mình, cứ thế mà nhớ. Giống như hạt giống nằm trong đất, gặp mưa thì nảy mầm”.

Bản giao hưởng nguyên sơ của đại ngàn

Hát khan không chỉ đơn thuần là kể chuyện hay ca hát, mà là một thể loại nghệ thuật tổng hợp độc đáo của người M'nông, kết tinh giữa lời kể sử thi, giai điệu ngẫu hứng và cảm xúc sống động của nghệ nhân. Trong khan, không có ranh giới rõ ràng giữa nói và hát, giữa kể và diễn. Câu chuyện được kể ra bằng giọng hát, mà lời hát lại đậm chất kể, tạo thành một mạch tuôn chảy giàu hình ảnh, âm thanh và cảm xúc.

Điều đặc biệt của hát khan nằm ở tính ngẫu hứng theo nhịp điệu riêng, chính vì vậy, mỗi nghệ nhân lại có phong cách riêng, không ai hát kể giống ai. Nhịp điệu không tuân thủ một khung cố định nào cả, mà được tạo nên từ chính hơi thở, nhịp tim và cảm xúc của người kể. Có đoạn dồn dập, căng thẳng như tiếng đàn voi xông trận; có đoạn chậm rãi, da diết như suối chảy qua mỏm đá rêu phong. Lời kể không ràng buộc theo văn bản, nhưng giàu hình tượng và gợi mở, dùng nhiều phép ẩn dụ, nhân hóa, ngôn ngữ giàu tính thơ ca.

Khan thường được trình diễn vào những dịp lễ hội lớn, sau mùa gặt, khi dân làng tụ hội bên bếp lửa. Không có đạo cụ cầu kỳ, đôi khi chỉ cần một ống sáo, một thanh gỗ gõ nhịp, hoặc thậm chí là... sự im lặng của rừng đêm làm nền. Cái quan trọng nhất là sự kết nối giữa nghệ nhân và người nghe, hay nói cách khác, hát khan sống bằng sự đồng cảm, bằng cộng hưởng tinh thần giữa người kể và cộng đồng.

Trong một bài khan, người nghệ nhân không chỉ là người kể chuyện, mà còn là nhà sử học, nhà triết học, nghệ sĩ biểu diễn và cả người truyền giáo tinh thần. Họ đưa người nghe vượt qua biên giới của hiện tại, trở về thời khởi thủy, khi tổ tiên người M'nông kết bạn với núi rừng, dựng bon lập làng, chiến đấu với quỷ dữ và học cách sống thuận theo quy luật của trời đất. Nói một cách khác, khan là bức tranh vũ trụ thu nhỏ bằng ngôn ngữ và giai điệu, là ký ức tập thể được “sống” trong từng câu hát kể. Đó là nghệ thuật của trí nhớ, của tâm linh, của cộng đồng, là thứ nghệ thuật không cần sân khấu, không cần ánh đèn, mà chỉ cần một ngọn lửa và những người biết lắng nghe.

Theo ông Trương Bi - người có nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm sử thi Tây Nguyên, hát khan chính là “trí nhớ tập thể” của người M'nông, là nơi lưu giữ lịch sử, phong tục, luật tục, đạo lý sống và cả thế giới quan, nhân sinh quan của cộng đồng.

“Người M'nông không viết sử bằng sách, mà hát kể khan chính là cuốn sử truyền miệng sống động nhất. Có khan kể về công lao dựng bản lập làng, có khan nói về luật tục xử kiện, cũng có khan chỉ dạy con người cách sống chan hòa với thiên nhiên, cư xử tử tế với cộng đồng. Một đêm kể khan có thể kéo dài suốt nhiều giờ đồng hồ, thậm chí qua cả đêm. Không ai ép người nghệ nhân phải nhớ từng câu từng chữ, nhưng kỳ lạ thay, họ có thể kể không sai một tình tiết, dù tuổi đời đã cao” - ông Bi cho biết thêm.

Nghệ nhân Điểu K'lung là người có công sưu tầm bộ kho tàng sử thi Tây Nguyên. Ảnh: Việt Bắc

Nghệ nhân Điểu K'lung là người có công sưu tầm bộ kho tàng sử thi Tây Nguyên. Ảnh: Việt Bắc

Người giữ lửa trong bóng hoàng hôn

Đã từng có thời, hát khan chỉ cất lên khi bon làng có lễ cúng tổ tiên, lễ mừng lúa mới, hay đêm dài canh rẫy. Nhưng giờ đây, hát khan đã bước ra khỏi rừng, vang lên trong các lễ hội văn hóa dân tộc, thậm chí lên sóng truyền hình. Ấy là nỗ lực để khan không bị lãng quên giữa những âm thanh ồn ào của đời sống hiện đại.

Tại Lễ hội văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông năm ngoái, tôi gặp nghệ nhân Thị Mai, một phụ nữ tuổi ngoài 40, hiện đang sống tại bon Bu Prâng, xã Đắk N’Drung, huyện Đắk Song, được biết đến là ''người đàn bà sử thi'' ở Tây Nguyên biểu diễn hát khan trên sân khấu ngoài trời. Không gian không còn là bon làng quen thuộc, nhưng giọng kể vẫn trầm bổng như suối chảy, vẫn lấp lánh huyền thoại. Khán giả, nhiều người chưa từng nghe hát kể khan bao giờ, lặng người rồi vỗ tay không ngớt.

“Khan không chỉ là chuyện cũ. Trong khan có cả bài học hôm nay: phải biết nhớ ơn tổ tiên, yêu thương rừng núi, sống tốt với nhau. Nếu còn người nghe, thì khan còn sống” - nghệ nhân Thị Mai bảo vậy sau buổi diễn.

Gìn giữ khan không chỉ là trách nhiệm của nghệ nhân. Những năm gần đây, tỉnh Đắk Nông đã phối hợp với các cơ quan văn hóa, trường học để đưa khan vào chương trình ngoại khóa, tổ chức liên hoan, ghi âm tư liệu và mời nghệ nhân truyền dạy. Có những lớp học khan nhỏ ở trường tiểu học, nơi các em bé M'nông ê a những câu hát kể đầu tiên trong đời, ánh mắt lấp lánh như đốm lửa nhỏ đang bùng lên.

Hiện nay, ở 2 tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, người biết hát kể sử thi M'nông không nhiều. Riêng ở tỉnh Đắk Nông hiện còn có chưa tới 10 nghệ nhân hát kể khan có thể biểu diễn trọn vẹn. Họ đều là những người cao tuổi, sống chủ yếu ở các bon làng vùng sâu, biên giới như Đắk R’tíh, Quảng Sơn, Đắk Buk So... Già làng Điểu K'lung và Điểu K'lứt, nghệ nhân Thị Mai... là những “kho báu sống” mà chính quyền và cộng đồng đang cố gắng gìn giữ.

Dẫu vậy, hành trình này còn nhiều gian nan. Lối sống hiện đại khiến thanh niên rời bon làng lên phố, ít ai đủ kiên nhẫn để nghe trọn một đêm khan, càng khó có người tình nguyện học thuộc hàng ngàn câu chuyện, giai điệu, luật tục.

“Hát kể khan như sợi dây nối đất với trời. Đứt sợi dây ấy là mất một phần hồn cốt của người M'nông” - già làng Điểu K'lứt trầm ngâm, trăn trở.

Trên đường trở về sau chuyến đi, tôi vẫn văng vẳng bên tai giọng khan của già Điểu K'lứt, như thể đại ngàn đang cất tiếng hát, kể lại những tháng năm buồn vui, hào hùng và thơ mộng. Hát kể khan không phải là nghệ thuật để trưng bày hay biểu diễn, mà là sự sống của ký ức cộng đồng, là tiếng nói của rừng, của đá, của người xưa vọng lại. Trong cuộc sống hiện đại với bao ồn ào và lãng quên, có những đốm lửa nhỏ như khan vẫn lặng thầm cháy, giữ ấm linh hồn dân tộc. Để một ngày nào đó, trong một đêm lửa rừng lại có thêm một giọng hát kể khan cất lên, tiếp nối mạch ngầm của thời gian, gìn giữ cội nguồn của người M'nông trên vùng đất Đắk Nông thiêng liêng này.

Việt Bắc

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/hat-ke-khan-kho-tang-van-hoa-song-cua-nguoi-m39nong-giua-dai-ngan-tay-nguyen-post491277.html
Zalo