Hào khí đường số 4 - Bản anh hùng ca đi cùng năm tháng - Bài 4

Bài 4: Vang dội chiến thắng Đông Khê, mở đường giải phóng Cao Bằng

Từ đỉnh núi Báo Đông (xã Đức Long), Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận, dõi theo từng diễn biến trận Đông Khê năm 1950. Ánh mắt Người cùng lời căn dặn giản dị nhưng quyết liệt tiếp thêm sức mạnh cho toàn quân, toàn dân quyết thắng. Trước trận đánh Đông Khê, quân ta mở đánh Đồn Đông Khê lần thứ nhất (5/1950) là cuộc thử lửa khốc liệt, rèn bản lĩnh, đúc kết kinh nghiệm; trận thứ hai (9/1950) quân ta bất ngờ bao vây, buộc Pháp thất thủ, mở toang cánh cửa giải phóng thị xã Cao Bằng. 75 năm qua, chiến thắng Đông Khê là bản hùng ca bất diệt, khẳng định đường lối sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Bác Hồ và sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Trận mở đầu bất ngờ - nghệ thuật đánh công kiên thọc sâu

Để hiểu trận đánh quân Pháp đồn trú, án ngữ tại đồn Đông Khê lần hai dù đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng quân và dân ta vẫn giành chiến thắng văng dội, hãy ngược dòng lịch sử trở về trận đánh Đồn Đông Khê lần thứ nhất. Đầu năm 1950, sau những thất bại nặng nề trong các chiến dịch Thu - Đông (1947 - 1949), quân Pháp buộc phải rút khỏi 41 vị trí ở các huyện của Cao Bằng, nhưng chúng vẫn cố bám lấy thị xã Cao Bằng và Đông Khê. Đặc biệt, Đông Khê trở thành “mắt xích sống còn” trong hệ thống phòng thủ, một tiền đồn then chốt bảo vệ dải hành lang an toàn còn lại trên đường số 4, án ngữ giữa Cao Bằng - Thất Khê (Lạng Sơn).

Địch tăng cường binh lực, củng cố công sự, coi đây là phòng tuyến trọng yếu không thể mất. Chúng chia Đông Khê làm 6 khu đề kháng. Binh lực địch ở cứ điểm Đông Khê tương đối mạnh, có công sự kiên cố, với 2 đại đội bộ binh Âu - Phi, 1 đại đội lính ngụy, 1 bộ phận pháo binh với gần 400 tên; vũ khí gồm pháo 105 ly, 57 ly, 2 tốc xa pháo, súng phóng lựu UB súng cối, đại liên, trung liên, tiểu liên, súng, lựu đạn. Đặc biệt chúng xây dựng lô cốt kiên cố bố trí theo hình tháp để quan sát từ trên xuống dễ dàng đánh chặn từ trên xuống nếu bị tấn công từ ngoài vào. Quân Pháp tin rằng, một khi quân ta tấn công từ dưới lên, mọi mũi tiến công đều sẽ bị lộ và bị nghiền nát.

Với sự dàn quân mạnh của địch, phía ta nhận định nếu chiếm được Đông Khê, quân Pháp ở Cao Bằng sẽ bị cô lập hoàn toàn, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Phan Đình Phùng, đánh Đông Khê lần thứ nhất (5/1950). Đây là trận công kiên quy mô lớn, vừa nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, vừa rút kinh nghiệm huấn luyện, chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược sau này.

Trung đoàn 174 được giao nhiệm vụ chủ công. Hồi ký ông Đặng Văn Việt, Trung đoàn trưởng viết: “Khi nhận lệnh, tôi thấy vinh dự nhưng cũng nặng trĩu trách nhiệm. Bộ đội ta trưởng thành nhiều, song vẫn thiếu thốn so với Pháp: không có máy bay, không vũ khí hạng nặng, binh lực chưa đông. Chỉ có một vũ khí vô giá: niềm tin tất thắng. Qua trinh sát kỹ thực địa cách bố trí lực lượng của quân Pháp, Trung đoàn 174 đưa ra chiến thuật, cách đánh táo bạo: đánh thọc sâu, đánh thẳng vào lô cốt Cạm Phầy trên đỉnh cao, rồi tỏa xuống diệt các ổ hỏa lực. Đêm 25/5/1950, ở mặt trận nghi binh, ta bất ngờ nổ súng vào Thị xã và sân bay Nà Cạn thu hút sự tập trung của quân Pháp vào hướng Thị xã. Dưới Đông Khê, ta sẵn sàng tác chiến, hạ lệnh tiến công thì trời đổ mưa to, nước ngập đầy đường, khe suối, bộ đội ta phải gồng mình hành quân trong mưa trên đường trơn trượt kịp thời đến địa điểm sở chỉ huy và trận địa pháo trên dãy núi Yên Ngựa, cách phố Đông Khê 300 m. Đúng giờ sáng 5h sáng ngày 26/5/1950, tôi hạ lệnh công kích cho Trung đoàn 174 từ dãy núi Yên Ngựa nã pháo vào Cạm Phầy. Đây là lần đấu tiên Trung đoàn đánh hiệp đồng bộ pháo. Bị bất ngờ tấn công Đông Khê, binh lính địch trú trong đồn chạy tán loạn, tên quan ba Cadanôva vừa chạy đến đài chỉ huy thì bị chết do đại bác ta bắn trúng. Trận đánh diễn ra ác liệt, pháo ta nã đạn dồn dập vào pháo đài, đồn nha và một phần công sự Đông Khê bị sụp đổ, các kho bốc cháy. Đêm 26, rạng sáng 27/5/1950, phần lớn công sự địch bị phá hủy, tinh thần binh lính khiếp sợ, quân ta tiếp tục tổng công kích trên các cứ điểm Cạm Phầy, Nhà Thương, Phủ Thiện, Ký Sáu, Pò Đình, Pò Hẩu… Đến 5h15 ngày 27/5/1950, đồn cuối cùng Phja Khóa kéo cờ trắng đầu hàng. Đông Khê lần thứ nhất hoàn toàn giải phóng.

Chiến thắng này, ta loại khỏi vòng chiến 377 tên địch, bắt sống 73 tên, thu nhiều vũ khí, tài liệu quan trọng. Quan trọng hơn cả, bộ đội ta tích lũy được kinh nghiệm quý giá về đánh công kiên, hiệp đồng binh chủng, pháo binh - bộ binh phối hợp.

Cụm di tích Bác hồ quan sát trận địa trên đỉnh núi Báo Đông, xã Đức Long là điểm “về nguồn” của các thế hệ hôm nay.

Cụm di tích Bác hồ quan sát trận địa trên đỉnh núi Báo Đông, xã Đức Long là điểm “về nguồn” của các thế hệ hôm nay.

Chiến thắng Đông Khê lần hai - Bước ngoặt quyết định của Chiến dịch Biên giới

Sau thất bại nặng nề ở Đông Khê lần thứ nhất, quân Pháp vẫn ngoan cố tìm cách khôi phục thế trận. Ngày 27/5/1950, chúng tung một tiểu đoàn nhảy dù tái chiếm, nhanh chóng củng cố hệ thống phòng thủ bằng hầm ngầm, lô cốt, hàng rào dây thép gai và hỏa lực liên hoàn, biến nơi đây thành “lá chắn thép” bảo vệ tuyến đường tiếp tế cho quân chiếm đóng ở Cao Bằng. Từ thị xã, chúng mở nhiều cuộc càn quét xuống Tài Hồ Sìn, Bản Tấn, Bình Dương, tấn công căn cứ Lam Sơn (Hòa An), chiếm Khau Đồn, Sông Mãng… nhưng đều bị quân ta chặn đánh, buộc phải rút về cố thủ. Đông Khê trở thành “cánh cửa mở” để quân ta hướng tới chiến thắng lớn trên toàn tuyến biên giới.

Trước tình hình đó, tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới mang tên Lê Hồng Phong II, lấy Đông Khê làm điểm mở màn. Đây là bước đi chiến lược nhằm tiêu diệt sinh lực địch, khai thông biên giới, tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam kết nối trực tiếp với hậu phương quốc tế. Được Bộ Tư lệnh Liên khu I phê chuẩn, Sở Chỉ huy chiến dịch đặt trên núi Pác Phiêng, phía Đông thị trấn Đông Khê. Lực lượng chủ lực tham gia gồm Trung đoàn 174 do Đặng Văn Việt chỉ huy, Trung đoàn 209 của Lê Trọng Tấn, cùng các đơn vị pháo binh, công binh, phối hợp chặt chẽ với Đại đoàn 308 dự bị. Lần này, ông Đặng Văn Việt phân công Tiểu đoàn 251 (Nguyễn Hữu An) đánh chính diện pháo đài, Tiểu đoàn 249 (Lê Hoàn) đánh chiếm Yên Ngựa - Cạm Phầy - Phja Khóa, Tiểu đoàn 250 làm dự bị. Trung đoàn 209 (Lê Trọng Tấn) đánh hướng Nam, Đại đoàn 308 làm dự bị. Pháo binh ta bố trí 14 khẩu súng ở phía Đông yểm trợ. Từ kinh nghiệm trận đánh trước, quân ta đã nắm chắc cách đánh “công điểm, diệt viện”, kết hợp linh hoạt nhiều mũi giáp công.

Rạng sáng 16/9/1950, pháo binh ta đồng loạt nã cấp tập vào cứ điểm Đông Khê. Các mũi xung kích bộc phá mở cửa, bộ binh ào ạt xông lên. Tiểu đoàn 251 do Nguyễn Hữu An chỉ huy tiến công chính diện pháo đài, Tiểu đoàn 249 đánh chiếm Yên Ngựa, Phja Khóa, Tiểu đoàn 250 làm dự bị; Trung đoàn 209 từ hướng Nam đánh phối hợp. Đến trưa, ta làm chủ Yên Ngựa, Phja Khóa, Pò Đình, Pò Hẩu. Song do địch phòng ngự kiên cố, trận đánh giằng co quyết liệt, kéo dài sang ngày 17/9.

Trước tình thế đó, Đặng Văn Việt và Chu Huy Mân kịp thời đổi hướng chiến thuật: bỏ hướng Bắc, tập trung mũi đột phá từ phía Đông và Nam nơi phòng ngự yếu hơn. 18h30’ ngày 17/9, lệnh tổng công kích được ban ra, các đơn vị đồng loạt xung phong. Trong lửa đạn giao tranh ác liệt có nhiều tấm gương anh hùng như: anh La Văn Cầu, bị bắn nát cánh tay phải, vẫn quyết cắt bỏ để tiếp tục ôm bộc phá lao vào lô cốt, dùng răng giật kíp mở đường đột phá. Anh Trần Cừ, đại đội trưởng, dù hai chân bị thương nặng, vẫn lết vào lấy thân mình lấp lỗ châu mai, chặn hỏa lực địch và hy sinh anh dũng. Anh Lý Viết Mưu, bị thương nặng, vẫn ôm 12 kg bộc phá phá sập hầm địch, mở toang cửa tiến công. Hậu phương có hàng trăm dân công như chị Đinh Thị Dậu, chị Định Thị Bỏng dũng cảm cõng thương, tiếp đạn dưới mưa bom pháo, tiếp sức cho tiền tuyến…

Sau 54 giờ chiến đấu, 4h30’ sáng 18/9/1950, quân ta làm chủ toàn bộ Đông Khê, tiêu diệt và bắt sống 300 tên địch, trong đó có tên quan ba Alioux - đồn trưởng, bắn rơi 1 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, quân trang. Trận Đông Khê kết thúc trong tiếng reo hò vang dội, cổ vũ khí thế toàn chiến dịch. Chiến thắng không chỉ đập tan “lá chắn thép” của Pháp ở biên giới mà còn đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam về nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng. Đây chính là bước ngoặt quyết định mở màn cho thắng lợi vang dội của Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950.

Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng sự có mặt động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại mặt trận, chiến dịch đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng. Bác Hồ nhấn mạnh: “Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi.” Sau khi Đông Khê thất thủ, quân Pháp buộc phải rút chạy khỏi thị xã Cao Bằng, xuôi đường số 4, nhưng rơi vào trận địa phục kích của ta, bị tiêu diệt và bắt sống toàn bộ. Ngày 3/10/1950, Cao Bằng hoàn toàn giải phóng, cửa ngõ biên giới phía Bắc được mở rộng, tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến.

75 năm đã trôi qua, ký ức về Đông Khê vẫn sáng ngời trong dòng chảy lịch sử. Thị trấn Đông Khê hôm nay khang trang, sầm uất, nhưng trong từng tấc đất nơi đây vẫn vọng vang tiếng trống trận năm xưa, nhắc nhở muôn đời sau về tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh và một chiến thắng lẫy lừng đã làm thay đổi cục diện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bài cuối: Bản hùng ca giải phóng Cao Bằng - Khát vọng bước vào kỷ nguyên mới

Nhóm Phóng viên

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/hao-khi-duong-so-4-ban-anh-hung-ca-di-cung-nam-thang-bai-4-3180877.html