Hành trình tri ân 511 nhà báo liệt sĩ
Giữa mưa bom bão đạn, nhiều nhà báo chiến trường đã ngã xuống khi cố gắng ghi lại những thước phim, hình ảnh và thông tin chân thực nhất. Sau chiến tranh, nhiều phóng viên vẫn còn nằm lại đâu đó giữa núi rừng... Từ nỗi day dứt ấy, nhà báo Trần Văn Hiền đã bỏ nhiều công sức sưu tầm các chứng tích, tài liệu về 511 nhà báo liệt sĩ.

Nhà báo Trần Văn Hiền bên ban thờ các nhà báo liệt sĩ ở chùa Da
Trong không khí kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng tôi có dịp gặp gỡ nhà báo Trần Văn Hiền. Ông không chỉ là một cây bút dạn dày chiến trường, mà còn là người đã dành gần 20 năm miệt mài đi tìm danh tính 511 nhà báo liệt sĩ, để đưa về thờ tự tại chùa Da, xã Hưng Lộc (TP Vinh, Nghệ An). Ông cũng là tác giả của bài thơ nổi tiếng Xin đừng gọi anh là liệt sĩ vô danh, tác phẩm từng lay động hàng triệu trái tim và góp phần thay đổi cách ghi tên trên bia mộ các liệt sĩ vô danh trong nghĩa trang trên khắp cả nước.
Ký ức nhà báo chiến trường
Sinh năm 1948 tại Quỳnh Ngọc (Quỳnh Lưu, Nghệ An), ở tuổi 77, nhà báo Trần Văn Hiền vẫn còn minh mẫn, trí nhớ sắc sảo. Những ký ức chiến trường như vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí ông, sống động như mới hôm qua. Thắp nén hương cho đồng đội tại chùa Da, nhấp chén trà nóng, ông bắt đầu câu chuyện đến với nghề báo và những năm tháng tác nghiệp trong mưa bom, lửa đạn.
Tháng 10.1965, ông Trần Văn Hiền nhập ngũ, trở thành lính công binh Quân khu 4, làm nhiệm vụ trên các tuyến đường chiến lược chi viện cho miền Nam. Năm 1967, ông chuyển sang công tác tuyên truyền và tham gia trại sáng tác đầu tiên do Hội Văn nghệ Nghệ An tổ chức. Đây cũng là bước ngoặt đưa ông đến với văn chương, báo chí.
Sau thời gian làm việc tại Ty Giao thông và học lớp tuyên huấn, ông được điều về Báo Nghệ An, bắt đầu sự nghiệp báo chí với vai trò phóng viên chiến trường. Tháng 3.1972, khi chiến dịch giải phóng Quảng Trị khởi động, ông tình nguyện tham gia lực lượng báo chí đặc biệt do Tổng cục Chính trị thành lập. Biết rõ hiểm nguy, ông giấu vợ, người vừa sinh con thứ hai và lặng lẽ mang phần lương thực tiêu chuẩn về cho gia đình, còn mình chỉ mang theo vài cuốn sổ tay, cây bút và chút quân trang lên đường ra trận.
“Đoàn tôi có 6 người, nhưng chỉ 2 người trở về. Chiến trường khốc liệt lắm, sự sống và cái chết cách nhau chỉ gang tấc. Tôi theo chân đoàn pháo binh đánh Đông Hà, vượt sông Thạch Hãn rồi tiến vào Thành cổ Quảng Trị. Sau giải phóng, tôi mới trở về, lúc ấy mới nói thật với vợ rằng mình vừa đi Quảng Trị về”, ông kể. “Thời điểm đó, ở chiến trường không có các phương tiện hiện đại để tác nghiệp, những gì tôi thu lại từ chiến trường chỉ là những trang sổ tay thấm đẫm mồ hôi, bụi đất và cả máu của một thời tuổi trẻ. Những trang viết ấy giờ là tư liệu vô giá”, ông Hiền cho biết thêm.
Năm 1993, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên tập Báo Nghệ An. Cũng trong năm 1993, trong một chuyến công tác tại Nghĩa trang Quốc tế Việt - Lào (Anh Sơn, Nghệ An), ông đứng lặng trước hàng ngàn tấm bia khắc dòng chữ “Liệt sĩ vô danh”. Trái tim người lính, người cầm bút như thắt lại. Ông ngồi xuống, viết liền một mạch bài thơ “Xin đừng gọi anh là liệt sĩ vô danh” như một khúc tưởng niệm những người đồng đội đã ngã xuống mà chưa một lần được xướng danh. Bài thơ sau đó được đăng trên báo và lan tỏa sâu rộng, đánh thức trong lòng bao người về sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ. Đến năm 1996, Nhà nước đã cho thay thế dòng chữ ấy bằng “Liệt sĩ chưa biết tên”, một sự thay đổi về ngôn từ nhưng lớn lao, xoa dịu phần nào nỗi đau suốt nhiều năm sau chiến tranh.

Nhiều di ảnh của các nhà báo liệt sĩ được nhà báo Văn Hiền sưu tầm về thờ tại chùa
Nơi duy nhất thờ tự những nhà báo liệt
Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề báo, từng lăn lộn nơi chiến trường ác liệt trong kháng chiến chống Mỹ, nhà báo Trần Văn Hiền ngày càng thấm thía những mất mát, hy sinh của đồng nghiệp. “Họ là lớp lớp chiến sĩ nhà báo tuổi đôi mươi, sẵn sàng xông pha mặt trận, chấp nhận hy sinh để kịp thời phản ánh những khoảnh khắc chân thực, sống động về cuộc chiến giành độc lập dân tộc. Mình còn sống trở về, chẳng lẽ không làm gì để tri ân họ?”, ông Hiền nghẹn lời.
Mang trong lòng nỗi trăn trở ấy, giữa thời bình, ông bắt đầu lần giở những trang tư liệu cũ, chắp nối từng mảnh ký ức để ghi lại chân dung các đồng nghiệp liệt sĩ. Ông rong ruổi về các vùng quê, quay trở lại chiến trường xưa, có khi mất cả chục năm để gom góp tư liệu, gặp gỡ thân nhân, nhân chứng, chỉ mong tìm lại tên tuổi, cội nguồn cho những người đã ngã xuống. Từ trái tim và công sức ấy, chân dung 511 nhà báo liệt sĩ được ông ghi lại trong hai cuốn sách “Khoảnh khắc và mãi mãi” và “Dáng đứng dưới tầm bom”, như một lời nhắc nhở về sự dấn thân, hy sinh và giá trị trường tồn của nghề báo.
Trong hàng trăm câu chuyện xúc động, nhà báo Trần Văn Hiền nhớ nhất về người bạn học cũ là nhà báo Vũ Hiến (Báo Hải quân Việt Nam), hy sinh năm 1979. Năm 1997, nhà báo Hiền tìm gặp vợ liệt sĩ là bà Nguyễn Thị Thân ở Thủy Nguyên (Hải Phòng) và biết phần mộ chồng được chôn tại đảo Thổ Chu (Kiên Giang). Bà đã lặn lội vào tận nơi, nhưng khi bốc mộ, hài cốt bên trong không phải của ông Hiến.

Những kỷ vật thiêng liêng của các liệt sĩ, nhà báo được lưu giữ rất trân trọng tại chùa Da
Mãi sau này, trong một hội thảo về Hải quân, ông Hiền tình cờ gặp Trung tướng Nguyễn Văn Tình, người từng chỉ huy trận đánh có Vũ Hiến tham gia. Theo ông Tình, ngày 3.1.1979, nhà báo Vũ Hiến theo Trung đoàn 812 tác nghiệp trên tháp pháo xe tăng, và hy sinh tại ngã ba Va Lung trong lúc giao tranh ác liệt, tay vẫn cầm máy ảnh. Thi thể ông cùng 25 chiến sĩ được để tạm chờ đưa về hậu cứ, nhưng sau đó khu vực bị địch chiếm lại và thiêu hủy toàn bộ. Sự thật ấy giúp giải đáp vì sao bà Thân, vợ liệt sĩ không thể tìm thấy hài cốt chồng trong suốt nhiều năm, giúp người thân vơi bớt nỗi đau khôn nguôi.
Hay như câu chuyện về nhà báo Phạm Hồ (1927-1969), khiến nhà báo Trần Văn Hiền xúc động mãi. Ông là Thư ký tòa soạn, Bí thư Chi bộ Báo Hà Tĩnh, vừa cưới vợ được hai tuần đã lên đường vào chiến trường. Ngày 12.7.1969, ông hy sinh tại Trà My (Quảng Nam), chưa kịp để lại cho vợ một đứa con. Còn rất nhiều câu chuyện cảm động về các nhà báo khác như: Nông Văn Tư (Thái Nguyên), hai anh em Bùi Văn Thưởng, Bùi Văn Tấn (Tiền Giang), Phạm Thị Ngọc Huệ (Ninh Bình), Nguyễn Thị Thanh Xuân (Quảng Bình)...
Sau nhiều năm miệt mài, ông Hiền đã hoàn tất danh sách 511 nhà báo liệt sĩ và lập bàn thờ tập thể cho họ tại chùa Da (Âu Lạc) tại làng Lộc Đa nay là xóm Hòa Tiến, xã Hưng Lộc, TP Vinh, ngôi chùa duy nhất trong cả nước thờ tự những phóng viên, nhà báo đã anh dũng hy sinh trong các cuộc kháng chiến và khi làm nhiệm vụ quốc tế. Ngôi chùa không chỉ là nơi lưu giữ hương hồn, mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn sâu sắc, của một người cầm bút chưa từng quên những đồng nghiệp nằm lại giữa chiến trường. Tại nơi thờ tự, nhiều kỷ vật thiêng liêng như bút, máy ảnh, mũ... được trưng bày. Đặc biệt có chiếc bút kim tinh của một phóng viên hy sinh năm 1963 và chiếc máy ảnh một nhà báo gửi lại đồng đội trước lúc hy sinh.
Tấm gương của những nhà báo liệt sĩ là lời nhắc nhở những người làm báo hôm nay cần sống xứng đáng, không ngừng đổi mới, sáng tạo để góp phần phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam. Dù đã hoàn thành phần nào tâm nguyện, nhà báo Trần Văn Hiền vẫn day dứt khi biết nhiều thân nhân liệt sĩ, nhất là vợ con các nhà báo, đang sống âm thầm, thiếu thốn. Ông mong các cơ quan báo chí và tổ chức xã hội tiếp tục quan tâm, tri ân sâu sắc đến họ.
Với hơn 40 năm làm nghề, nhà báo Văn Hiền đã xuất bản hơn 20 đầu sách cùng nhiều tác phẩm báo chí, văn học giá trị. Dù đã cao tuổi, ông vẫn nhớ từng chi tiết trong các tác phẩm của mình. Ông cho rằng, nhà báo trẻ ngày nay có lợi thế công nghệ, nhưng để chạm tới độc giả, cần đi nhiều, đọc nhiều và biết chọn đề tài hay. “Nhưng dù phương tiện có hiện đại đến đâu, cốt lõi vẫn là thái độ với nghề, sự trung thực và cảm xúc thật với cuộc sống”, nhà báo Văn Hiền chia sẻ.
Sau nhiều năm miệt mài, ông Hiền đã hoàn tất danh sách 511 nhà báo liệt sĩ và lập bàn thờ tập thể cho họ tại chùa Da (Âu Lạc) tại làng Lộc Đa nay là xóm Hòa Tiến, xã Hưng Lộc, TP Vinh, ngôi chùa duy nhất trong cả nước thờ tự những phóng viên, nhà báo đã anh dũng hy sinh trong các cuộc kháng chiến và khi làm nhiệm vụ quốc tế. Ngôi chùa không chỉ là nơi lưu giữ hương hồn, mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn sâu sắc, của một người cầm bút chưa từng quên những đồng nghiệp nằm lại giữa chiến trường. Tại nơi thờ tự, nhiều kỷ vật thiêng liêng như bút, máy ảnh, mũ... được trưng bày. Đặc biệt có chiếc bút kim tinh của một phóng viên hy sinh năm 1963 và chiếc máy ảnh một nhà báo gửi lại đồng đội trước lúc hy sinh.