Hành trình đi tới quốc gia hùng cường
Trong lịch sử dân tộc, chưa bao giờ khát vọng vươn lên trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao lại hiện hữu như bây giờ. Từ một quốc gia trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh, một nền kinh tế nghèo, phụ thuộc vào viện trợ… nay Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ, viết tiếp những trang sử mới bằng khát vọng phát triển, bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và quyết tâm hội nhập. Tuy nhiên để trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như Đại hội XIII của Đảng đã xác định, Việt Nam cần tư duy đột phá, hành động quyết liệt để tiến bước vững chắc về phía trước, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt, địa chính trị, địa kinh tế đầy biến động, khó lường như hiện nay.

Nhìn lại chặng đường gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội toàn diện, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao và ổn định, với GDP năm 2024 đạt 476,3 tỷ USD – tăng gấp 40 lần so với năm 1986. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000–2024 đạt 6,7%/năm, thuộc nhóm cao trên thế giới. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt kỷ lục 786,3 tỷ USD, xuất siêu 24,77 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký năm 2024 đạt 38,23 tỷ USD, thực hiện 25,35 tỷ USD – mức cao nhất từ trước đến nay.
Thành quả này đã nâng thu nhập bình quân đầu người lên khoảng 4.700 USD, đưa Việt Nam từ một nước nghèo trở thành quốc gia thu nhập trung bình. Thành tựu giảm nghèo được cộng đồng quốc tế ghi nhận là ngoạn mục: tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ trên 70% đầu thập niên 1990 xuống chỉ còn 1,93% vào năm 2024. Chất lượng sống cải thiện rõ rệt, tuổi thọ trung bình đạt 74,7 tuổi, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,726.
Không chỉ có vấy, động lực tăng trưởng trong nước được củng cố bởi sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, với hơn 940.000 doanh nghiệp và 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp trên 50% GDP. Hạ tầng hiện đại hóa nhanh chóng: hơn 1.800 km đường cao tốc, mạng 5G thương mại hóa từ 2024, tỷ lệ phủ sóng Internet đạt trên 75% dân số…
Những giới hạn cần hoàn thiện
Thành tựu ấn tượng của gần bốn thập kỷ Đổi mới là vậy, song cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, mô hình tăng trưởng truyền thống dựa vào vốn, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên đã gần như chạm tới giới hạn. Năng suất lao động có xu hướng tăng chậm lại, từ 6,05%/ năm (2016-2020) xuống còn 4,84%/năm (2021-2024), thấp hơn mục tiêu đề ra là 6,5%. Chất lượng dòng vốn FDI còn hạn chế, chủ yếu vào các ngành gia công, lắp ráp giá trị gia tăng thấp, chuyển giao công nghệ chưa đạt kỳ vọng. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức: tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 mới đạt 28,3%. Hệ thống giáo dục – đào tạo chưa đổi mới về chất, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế số. Hạ tầng logistics dù cải thiện nhưng vẫn kém cạnh tranh, chi phí cao; chỉ số Hiệu quả Logistics (LPI) năm 2023 xếp thứ 43, sau các nước trong khu vực như Singapore (7), Malaysia (26), Thái Lan (34). Hiệu quả sử dụng vốn thấp, thể hiện ở chỉ số ICOR trung bình 5,8 (giai đoạn 2021-2024), cao hơn nhiều so với mặt bằng thế giới. Năm 2024, vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 32,1% GDP, nhưng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) - yếu tố then chốt nâng cao chất lượng tăng trưởng - chỉ đóng góp 46,2% vào tăng trưởng GDP, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (65%) hay Nhật Bản (129,6%), Singapore (55-60%). Năng suất lao động đạt 9.182 USD/lao động năm 2024, chỉ bằng 13,6% Hàn Quốc, 61,2% Trung Quốc. Nếu lấy Việt Nam là 1 đơn vị thì Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia lần lượt gấp 15 lần, 3,48 lần, 1,65 lần, 1,29 lần, 1,25 lần Việt Nam.
Cùng đó, công nghiệp hóa theo hướng hiện đại còn gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu kinh tế dù chuyển biến nhưng công nghiệp chế biến chế tạo năm 2024 chỉ đóng góp 24,1% GDP, còn xa so với mục tiêu 30% vào năm 2030. Trong 5 năm (2020-2024), tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo gần như giữ nguyên, cho thấy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước thiếu liên kết, doanh nghiệp nội chỉ đóng góp 27,1% giá trị xuất khẩu dù chiếm số lượng lớn. Tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm 26,5% năm 2024, cao hơn nhiều các nước công nghiệp hóa.
Việc thiếu hụt nhân lực công nghệ cao cản trở phát triển các ngành bán dẫn, AI, robot. Nền kinh tế hội nhập mạnh mẽ nhưng phụ thuộc vào thị trường quốc tế, ít khai thác thị trường trong nước. Độ mở kinh tế lớn (xuất nhập khẩu chiếm 186% GDP năm 2024) khiến Việt Nam dễ tổn thương trước biến động toàn cầu. Nền kinh tế nặng về gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu (62% nguyên liệu sản xuất điện tử nhập từ Trung Quốc), 73% xuất khẩu thuộc khu vực FDI.
Chuyển đổi số và tăng trưởng xanh còn nhiều hạn chế. Kinh tế số mới đóng góp 13,2% GDP năm 2024, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (41-42%) và Hàn Quốc (khoảng 45%). Mới chỉ 34% người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 năm 2024. Chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn còn chậm. Năng lượng tái tạo chỉ chiếm 15% tổng công suất điện; về công suất, ở thời điểm đầu năm 2025, tổng công suất các nguồn năng lượng tái tạo đạt khoảng 27% tổng công suất đặt hệ thống điện quốc gia.
Các vấn đề về chất lượng tăng trưởng như ô nhiễm môi trường, phát thải khí nhà kính, thể chế quản trị còn nhiều điểm nghẽn, thủ tục hành chính phức tạp… vẫn đang hiện hữu. Chỉ số Quản trị toàn cầu, Chỉ số Cạnh tranh toàn cầu cho thấy, Việt Nam vẫn ở nhóm trung bình hoặc trung bình thấp. Chỉ số Hiệu quả quản trị nhà nước năm 2023 đạt 56,13%, chỉ ở mức trung bình thế giới.
Khu vực kinh tế tư nhân chưa lớn mạnh như kỳ vọng. Nghị quyết 10 của Đại hội Đảng khóa XII đặt mục tiêu đến 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp, tỷ trọng đóng góp của khu vực tư nhân vào GDP đạt 55%, nhưng đến đầu 2025 mới chỉ có 940.000 doanh nghiệp, tỷ trọng khu vực này chỉ chiếm 50% GDP. Việt Nam chỉ có khoảng 10 doanh nghiệp trên 1.000 dân, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực và thế giới.
Nhìn tổng thể, Việt Nam đã đạt tăng trưởng khá về lượng, nhưng chưa đạt yêu cầu về chất. Các điểm nghẽn chiến lược về thể chế, hiệu quả đầu tư công, hạ tầng, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số… vẫn là thách thức lớn. Đặc biệt, thiếu các thể chế đột phá, cơ chế thử - sai còn hiếm. Những điểm nghẽn này đã được nhận diện đầy đủ, vấn đề là phải tháo gỡ thực chất để giải phóng tiềm năng, tạo động lực mới cho phát triển.
Động lực phát triển mới cho hành trình đến năm 2045
Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược: đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây là mục tiêu lớn, là khát vọng của cả dân tộc, đồng thời cũng là thách thức không nhỏ khi trên thế giới chỉ khoảng 30 quốc gia vượt được “bẫy thu nhập trung bình”. Vì thế, để tiến bước vững chắc về phía trước, đòi hỏi Việt Nam phải có tư duy đột phá, không thể nối dài mô hình cũ mà cần sự chuyển đổi chiến lược trên ba bình diện: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu - từ tăng trưởng dựa vào tài nguyên, lao động rẻ, vốn đầu tư dễ sang dựa vào khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST), chuyển đổi số, nhằm nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh; Chuyển đổi thể chế quản trị quốc gia hiện đại, minh bạch, tinh gọn, hiệu quả: Không chỉ cải thiện quy định, quy trình hành chính mà còn thay đổi sâu sắc tư duy, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành hệ thống ứng dụng KHCN và CĐS để đáp ứng yêu cầu mới của thời đại; Chuyển đổi xanh, thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu: Nâng cao năng lực chống chịu của quốc gia trước các cú sốc bên ngoài, bảo đảm phát triển hài hòa, lâu dài. Trong đó, chuyển đối số và tăng trưởng xanh là hai động lực mới và có vai trò quan trọng nhất để thúc đẩy các động lực tăng trưởng.
Về chuyển đổi số, Việt Nam đặt mục tiêu kinh tế số đạt 30% GDP vào năm 2030, 50% vào năm 2045. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần hoàn thiện thể chế và chính sách bằng việc ban hành Luật Kinh tế số, đồng thời thí điểm các mô hình quản lý mới cho các đặc khu số nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới sáng tạo; Đầu tư cho khoa học công nghệ và nghiên cứu phát triển phải được tăng cường mạnh mẽ, không chỉ về nguồn lực tài chính mà còn đi kèm với đổi mới thể chế theo hướng thông thoáng, nhằm giải phóng nguồn lực và tiềm năng để tạo ra các đột phá; Xây dựng và đẩy mạnh hệ sinh thái thử nghiệm cho các mô hình kinh doanh mới như fintech, trí tuệ nhân tạo, blockchain để tạo điều kiện cho các ý tưởng sáng tạo được kiểm chứng và phát triển. Cùng đó, cần thúc đẩy doanh nghiệp số và đổi mới sáng tạo, đặc biệt hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các giải pháp về tài chính, tư vấn và nền tảng số chung, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong môi trường kinh tế số.
Song song, cải cách hành chính phải hướng tới số hóa toàn diện, từ môi trường làm việc đến các hoạt động tương tác, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và tiết kiệm chi phí xã hội; Phát triển hạ tầng số mở và bảo mật là nhiệm vụ trọng tâm, với việc đầu tư vào hạ tầng số quốc gia, triển khai mạng 6G, phát triển các nền tảng điện toán đám mây do Việt Nam làm chủ, đồng thời tích hợp và chia sẻ dữ liệu quốc gia để tạo nền tảng cho các dịch vụ số phát triển mạnh mẽ; Đảm bảo an toàn, an ninh mạng và chủ quyền số là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi nâng cao năng lực xử lý rủi ro, bảo vệ hệ thống trước các nguy cơ mất chủ quyền, an ninh mạng, đảm bảo khả năng phản ứng nhanh trước các sự cố và tấn công mạng; Phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao; Xây dựng thị trường số và tài chính số đồng bộ, hoàn thiện hệ thống thanh toán số, tiến tới xây dựng đồng tiền số quốc gia là nền tảng để thúc đẩy giao dịch và các hoạt động kinh tế số; Phát triển nền tảng thương mại điện tử nội địa có khả năng kết nối hộ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đẩy mạnh phát triển Chính phủ số, kinh tế nền tảng và kinh tế chia sẻ để mở rộng không gian phát triển cho mọi chủ thể kinh tế; Cuối cùng, cần thúc đẩy kinh tế dữ liệu thông qua việc định giá dữ liệu, phát triển thị trường dữ liệu, từ đó tạo ra giá trị gia tăng mới cho nền kinh tế trong kỷ nguyên số.
Đối với tăng trưởng xanh, Việt Nam đã đưa ra các mục tiêu tăng trưởng xanh, xanh hóa nền kinh tế khá cao so với trung bình thế giới. Theo Quy hoạch điện VIII sửa đổi năm 2025, năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) dự kiến chiếm 28-36% tổng công suất điện quốc gia năm 2030, 74-75% năm 2050. Đây là mức tăng đáng kể, thể hiện quyết tâm chuyển dịch năng lượng xanh, giảm phát thải khí nhà kính, thực hiện cam kết Net Zero 2050. Việc Việt Nam cam kết đạt trung hòa carbon vào năm 2050 là ngang với mục tiêu của nhiều nước phát triển ở châu Âu cũng là một cam kết mạnh mẽ của Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt các mục tiêu này, cần phát triển thị trường carbon, đảm bảo có đầy đủ các điều kiện cho một thị trường carbon vận hành hiệu quả, đồng thời xây dựng các lộ trình rõ ràng theo từng ngành để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; Đẩy mạnh các cơ chế khuyến khích chuyển dịch năng lượng sang các nguồn điện tái tạo như điện mặt trời, điện gió, sinh khối… nhằm tăng tỷ trọng năng lượng sạch trong tổng công suất điện quốc gia.
Đồng thời, cần thu hút mạnh mẽ đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng xanh thông qua đổi mới thể chế và cải cách giá điện theo cơ chế thị trường, tạo động lực cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư và phát triển các dự án năng lượng tái tạo; Xây dựng các đô thị thông minh, carbon thấp, trong đó tập trung phát triển nhà ở, công trình xây dựng xanh và thúc đẩy các giải pháp tiết kiệm năng lượng; Ưu tiên phát triển giao thông công cộng, khai thác không gian xanh, đẩy mạnh sử dụng xe điện và phát triển logistics xanh, nhất là tại các đô thị lớn, góp phần giảm phát thải khí nhà kính và nâng cao chất lượng môi trường sống; Thiết lập thị trường trái phiếu xanh, tín dụng xanh và phát triển các công cụ tài chính xanh để huy động và đa dạng nguồn lực cho các dự án phát triển bền vững; Khuyến khích mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất và tại các khu công nghiệp để giúp sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm chất thải và hướng tới phát triển bền vững; Đưa nội dung tăng trưởng xanh và kỹ năng xanh vào giáo dục phổ thông, đào tạo nghề nhằm phát triển nguồn nhân lực xanh, xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà quản trị ESG và tạo thêm nhiều việc làm xanh cho xã hội; Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng để thay đổi hành vi tiêu dùng, khuyến khích tiêu dùng xanh và xây dựng văn hóa sống xanh trong xã hội; Tăng cường hợp tác quốc tế, huy động đa dạng các nguồn lực tài chính để phục vụ cho các mục tiêu tăng trưởng xanh; Đầu tư mạnh mẽ vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nghiên cứu phát triển (R&D); nâng cao năng lực thực thi để đảm bảo hiệu quả và phù hợp với thực tiễn phát triển.
Song song các giải pháp trên, Việt Nam cần thực hiện tốt “Bộ tứ chính sách chiến lược” là: Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 68NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là các định hướng chiến lược tạo khung khổ về hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân, thực thi pháp luật hiệu quả, giúp Việt Nam nâng cao tự lực, tự cường, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
Việt Nam đang đứng trước vận hội lớn của lịch sử, nơi khát vọng vươn lên, ý chí đổi mới sáng tạo và sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc hội tụ. Những thành tựu vượt bậc trong gần bốn thập kỷ Đổi mới đã tạo nền móng vững chắc, tiếp thêm niềm tin để chúng ta tự tin bước tiếp, chinh phục những đỉnh cao mới, khẳng định vị thế Việt Nam hùng cường trên trường quốc tế. Tin rằng, bằng khát vọng lớn, tư duy đổi mới, hành động quyết liệt, chúng ta có thể vượt qua mọi thách thức, biến thách thức thành cơ hội, biến cơ hội thành thành quả cụ thể để có được một hành trình đến tương lai thành công.