Hài hòa giữa yêu cầu bảo mật và quyền tiếp cận thông tin của người dân
Số lượng văn bản, tài liệu được đóng dấu 'mật' quá lớn và phân tán do nhiều nơi lạm dụng gây lãng phí cho quản trị công. Điều này ảnh hưởng đến tính minh bạch quốc gia và cho quyền tiếp cận thông tin của người dân, nhất là trong bối cảnh mới.

Hài hòa giữa yêu cầu bảo mật và quyền tiếp cận thông tin của người dân
Lạm dụng dấu mật gây lãng phí thời gian, công sức
ĐBQH Nguyễn Phương Thủy (Hà Nội), hiện nay không thống kê được số lượng văn bản, tài liệu được đóng dấu “mật” vì số lượng quá lớn và phân tán, nhưng chắc chắn là có không ít tài liệu đang bị “mật hóa” vượt mức yêu cầu thực tế. Từ thực tiễn kiểm tra, giám sát, đại biểu cho biết, có nơi việc đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính. Cứ tài liệu liên quan đến công tác cán bộ, tài liệu trong quá trình soạn thảo đều là mật. Các tài liệu nội bộ không đóng dấu mật nhưng vẫn phải quản lý, sử dụng như tài liệu mật. Thậm chí có những nội dung đã được báo chí đưa tin rộng rãi nhưng vẫn tiếp tục được đóng dấu mật. Có trường hợp cơ quan, tổ chức đóng dấu mật không phải để bảo vệ lợi ích quốc gia mà để an toàn cho người ký, để tránh bị chất vấn, tránh phải giải trình hoặc thậm chí để che giấu thông tin sai phạm.
“Điều này đang vô tình gây ra những thiệt hại lãng phí cho quản trị công, cho minh bạch quốc gia và cho quyền tiếp cận thông tin của người dân. Bên cạnh đó, hiện tượng trên đang tạo ra gánh nặng không nhỏ trong quản lý nhà nước. Người được giao lưu trữ, in ấn, chuyển giao, sao chụp, bảo quản hay tiêu hủy tài liệu phải tuân thủ hàng loạt các quy định nghiêm ngặt, rất tốn thời gian, công sức… Điều này đi ngược với tinh thần minh bạch, công khai và thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ như được nêu trong Chỉ thị số 53 mới đây của Bộ Chính trị”, ĐBQH Nguyễn Phương cho biết.
Nguyên nhân diễn ra tình trạng này do quy định của pháp luật còn rộng và chưa đủ rõ; thiếu chế tài xử lý hành vi lạm dụng…Vì thiếu khung pháp lý điều chỉnh nhóm tài liệu này nên cán bộ, công chức e ngại, không dám cung cấp thông tin cho các bên có liên quan, không dám đưa dữ liệu lên nền tảng số, không dám ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích văn bản, sợ rủi ro lộ lọt thông tin. Chính sự thiếu rõ ràng đã vô tình trở thành rào cản với chuyển đổi số và cải cách hành chính.
Chính vì vậy, đa số ĐBQH tán thành việc ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi) và cho rằng dự thảo Luật phù hợp với chủ trương và các quan điểm chỉ đạo của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Các nội dung của dự thảo Luật, trong đó đa số nội dung được kế thừa từ quy định còn phù hợp của Luật hiện hành; có điều chỉnh, bổ sung một số nội dung nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn.
Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin hợp pháp của người dân
Góp ý vào dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi) ĐBQH Thái Thị An Chung cho rằng, cần rà soát, điều chỉnh để phù hợp với ngành, lĩnh vực sau khi sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy; đưa ra khỏi phạm vi bí mật nhà nước những thông tin công khai trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và không cần bảo vệ theo danh mục bí mật nhà nước hiện hành.
Cụ thể, những thông tin như “dân số”, “người có công với cách mạng”, “bình đẳng giới”, “trẻ em”, “phương pháp, bí quyết sáng tạo, trao truyền di sản văn hóa phi vật thể”, “phương pháp, bí quyết tuyển chọn, huấn luyện huấn luyện viên, vận động viên các môn thể thao thành tích cao”, “biện pháp, bí quyết phục hồi sức khỏe vận động viên sau luyện tập, thi đấu”, “đấu pháp trong thi đấu thể thao thành tích cao”, “thông tin về di sản, cổ vật, bảo vật quốc gia”… được đưa ra khỏi danh mục là hoàn toàn hợp lý.
Đây là hướng sửa đổi đúng đắn, góp phần bảo đảm tính minh bạch, tránh lạm dụng việc đóng dấu mật đối với những thông tin không cần thiết, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động báo chí, công tác giám sát của Quốc hội, HĐND và việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin hợp pháp của người dân. Đồng thời, bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu bảo mật và quyền tiếp cận thông tin trong bối cảnh mới, ĐBQH Thái Thị An Chung khẳng định.
Lựa chọn những thông tin được xem là bí mật nhà nước phù hợp song cũng cần bảo đảm đầy đủ các hành vi nghiêm cấm trong bảo vệ bí mật nhà nước. ĐBQH Trần Thị Kim Nhung (Quảng Ninh) cho rằng, Khoản 10 chưa có quy định rõ ràng và đã là hành vi cấm thì quy định điều khoản phải rất chỉn chu, thận trọng, cụ thể là hành vi gì để biết được làm gì và không làm gì. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu để quy định rõ hơn.
Cùng chung nhận định này, ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, chúng ta có 3 cấp độ bảo vệ bí mật nhà nước là tuyệt mật, tối mật và mật. Do đó, các hành vi bị nghiêm cấm để bảo vệ tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia, kinh tế - xã hội là vô cùng quan trọng và cần thiết. Để đảm bảo sự chặt chẽ của pháp luật, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đối với danh mục bảo vệ bí mật nhà nước, phải xác định độ mật đúng quy định.
Đặc biệt, công nghệ ngày càng phát triển và phổ biến cũng tạo ra những tác động không nhỏ đến việc bảo vệ bí mật nhà nước. ĐBQH Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) chia sẻ, dự thảo Luật chỉ quy định về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến bí mật nhà nước là chưa đảm bảo đầy đủ. Nhưng thực tế, không chỉ AI mà còn nhiều công nghệ số tiên tiến khác như: khai thác dữ liệu lớn trên điện toán đám mây và sử dụng mã hóa blockchain để che giấu hành vi truyền tải trái phép tài liệu bí mật, cũng có thể bị lợi dụng để xâm phạm bí mật nhà nước.
Do đó, ĐBQH Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định theo hướng không chỉ có AI mà còn về các công nghệ số khác có thể xâm phạm bí mật nhà nước nhằm bảo đảm tính đầy đủ của các hành vi bị nghiêm cấm trong bảo vệ bí mật nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ngoài ra, ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) đề cập, đưa AI vào luật là điều khoản rất tiến bộ nhưng cần quy định rõ hành vi cụ thể bị cấm vì AI có thể được dùng để phân tích, trích xuất dữ liệu, tạo ra nguy cơ lộ lọt rất lớn mà không cần chiếm đoạt toàn bộ tài liệu. Vì vậy, cần làm rõ hơn phạm vi cấm, cụ thể “Nghiêm cấm sử dụng các công cụ, phần mềm có ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích, tổng hợp, tóm tắt nội dung tài liệu, thông tin có chứa bí mật nhà nước, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép và được triển khai trên hệ thống đã được kiểm soát an ninh.”































