Hà Nội tiên phong 'dẫn lối' đổi mới sáng tạo
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát tạo điều kiện sớm đưa kết quả nghiên cứu vào thực tế, phóng viên báo Tin tức và Dân tộc đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) xung quanh vấn đề này.
Ông đánh giá thế nào về dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội quy định hoạt động thử nghiệm có kiểm soát các hoạt động nghiên cứu khoa học trên địa bàn?
Nghị quyết của HĐND TP Hà Nội về quy định hoạt động thử nghiệm có kiểm soát tại TP Hà Nội thực hiện theo Điều 25 Luật Thủ đô được xây dựng công phu. Nội dung tại dự thảo là bước tiến quan trọng giúp chuyển hóa nhanh sáng tạo, tri thức của Thủ đô vào thực tiễn phát triển sản xuất. Thực tế cho thấy lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất phát triển rất nhanh, trong khi một số chính sách hiện nay chưa theo kịp.
Vì vậy, chúng ta cần có cơ chế thực nghiệm để từ đó xác định rõ phạm vi, đối tượng, mô hình; xác định rõ điều kiện để các hoạt động công nghệ được ứng dụng vào thực tiễn, các mô hình kinh doanh mới được triển khai.

Ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và doanh nghiệp công nghệ.
Từ thực tiễn đó đưa ra các quy định pháp luật phù hợp. Bản chất của thử nghiệm có kiểm soát là quá trình chủ động tạo ra thử nghiệm chính sách. Trên cơ sở đó, có thể rút ngắn quá trình xây dựng chính sách. Nếu chờ thực tiễn phát triển tự nhiên để khái quát thành chính sách có thể mất hàng chục năm.
Vì vậy, không nên chờ đợi, mà cần chủ động tạo ra chính sách; trên cơ sở thực hiện sẽ khái quát được thiếu cái gì, cái gì hay, tốt, độc đáo, tạo ra sự tăng trưởng thị trường tốt cho Thủ đô và cả nước, từ đó đưa vào quy định cho phép áp dụng rộng rãi.
Việc áp dụng cơ chế này cần bổ sung những gì, thưa ông?
Dự thảo này còn một số vấn đề cần cân nhắc điều chỉnh, bổ sung thiết thực hơn, cụ thể hơn và có tính khả dụng cao hơn. Thứ nhất, tại Khoản 3, cần bổ sung khái niệm “thử nghiệm có kiểm soát” để làm rõ nội hàm “kiểm soát” là gì, ai là người thụ hưởng, các đối tượng điều chỉnh sẽ tiếp cận dễ hơn.
Thứ hai, trong phần tiêu chí, điều kiện và các điều cấm của văn bản, các quy định còn quá chặt. Bởi lẽ, thử nghiệm có kiểm soát, ở mức độ nào đó, cần chấp nhận rủi ro và các vấn đề phát sinh ngoài ý muốn từ các mô hình thử nghiệm, công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới.
Khi chấp nhận điều đó, cần có phương án xử lý phát sinh ngoài ý muốn như thế nào? Vì khi thử nghiệm,chưa biết đúng sai, tác động ra sao và điều kiện pháp lý cụ thể là gì. Do đó, cần lựa chọn những nội dung có tiềm năng lớn, giá trị kinh tế xã hội cao, có tác động lớn đến ngành, lĩnh vực, có khả năng tạo ra thay đổi trong kinh tế xã hội để giải quyết bài toán phát triển cho Thủ đô. Vì vậy, cần thực hiện thử nghiệm có kiểm soát, thay vì áp dụng các quy định cấm.
Về tổ chức thực hiện chính sách, một điểm quan trọng là cần làm kỹ hơn về cơ chế giám sát, tức là công cụ và phương tiện giám sát. Đặc thù của lĩnh vực khoa học, công nghệ hiện nay là ngày càng gắn với sản xuất, kinh doanh, với doanh nghiệp nhiều hơn.
Nếu không có cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, không có cơ chế giám sát tốt, không có công cụ, phương tiện giám sát phù hợp, có thể sẽ nảy sinh vấn đề thiếu công khai, minh bạch. Điều này sẽ dẫn đến sự nghi ngờ từ phía người dân về nguy cơ tham nhũng. Đây là mâu thuẫn có thật trong thực tiễn.
Vì vậy, khi triển khai, cần có công cụ mạnh để đảm bảo toàn bộ quá trình thử nghiệm được báo cáo công khai, minh bạch. Những người thực hiện cũng sẽ yên tâm khi áp dụng.
Nghị quyết khi ban hành, theo tôi, sẽ có tác động lớn đến phát triển kinh tế, tạo ra công nghệ đột phá, các mô hình kinh doanh mới và rút ngắn quá trình ứng dụng công nghệ, đưa sản phẩm vào sản xuất – kinh doanh.
Hiện nay, chưa có địa phương nào ban hành nghị quyết thực hiện cơ chế thử nghiệm có kiểm soát với quy mô và thiết kế như Hà Nội. Hy vọng chính sách này sẽ tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho Thủ đô.
Xin trân trọng cảm ơn ông!