Gửi gắm ước vọng vào tên làng
Ở vùng ven biển Quảng Ngãi, có nhiều tên làng khởi nguồn hoặc kết thúc bằng chữ 'an', 'yên'. Như chiếc rễ cắm sâu vào tiềm thức người dân, dẫu qua nhiều thay đổi, những tên làng mang theo mong ước của người xưa về một làng quê yên bình vẫn luôn được người dân lưu truyền, gìn giữ.
Dọc theo đường bờ biển dài khoảng 130km của Quảng Ngãi, nhiều làng chài - nơi người dân phần lớn gắn bó với nghề biển, đều có tên gọi gắn với chữ “an”. Tại xã Đông Sơn, địa danh Ba Làng An - mũi đất được tạo nên từ những trầm tích của dung nham núi lửa từ hàng triệu năm trước, được đặt theo tên của 3 làng chài ven biển bắt đầu bằng chữ “an”, gồm An Hải (xã Bình Châu cũ), An Vĩnh và An Kỳ (xã Tịnh Kỳ cũ). Người dân của 3 làng chài ven biển này hầu hết đều là những ngư dân dày dạn biển khơi. Từ khoảng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, tiền nhân của làng chài An Vĩnh, An Hải đã vượt trùng dương trên những chiếc thuyền thô sơ, ra Lý Sơn khai phá, lập làng.
Cách đây hơn trăm năm, cũng chính tại vùng đất có mũi Ba Làng An này, vào thời vua Đồng Khánh (1885 - 1889), có đến 4 thôn, ấp với tên gọi có chữ “an”, gồm: thôn Thuận An, Tân An, An Thạnh và ấp Bình An. Các tên làng này đều được định danh bằng chữ Hán Việt. Trong đó, chữ “an” nghĩa là yên ổn.

Ở làng Đông Yên, tên làng cũng chính là tên của lăng vạn - nơi cộng đồng dân cư thờ cúng cá Ông và tổ chức hội họp, sinh hoạt cộng đồng.
Làng Đông Yên, xã Bình Sơn được mệnh danh là ngôi làng “cách biển nửa ngày sông”. Nơi đây người dân có truyền thống làm ngư nghiệp và sớm lênh đênh trên những hải trình đi buôn từ nam chí bắc trên những chiếc ghe bầu. Người dân đã trải qua không ít gian truân trên bước đường mưu sinh. Có lẽ vì những thử thách trước thiên nhiên trong quá trình khai hoang, lập làng, những thăng trầm trên hải trình đi biển, khiến mong ước về một cuộc sống yên ổn, bình yên lúc nào cũng hiển hiện trong lòng người dân nơi đây.
Người xưa đặt tên làng bằng chữ Hán Việt, trong đó chữ “đông” nghĩa là phía đông, còn “yên” cũng có thể đọc là “an”, có nghĩa là yên ổn. Trước đó, vào đời vua Gia Long, vua Đồng Khánh, ngôi làng này có tên gọi khác là Đông Tây An thôn. Trải qua bao biến thiên, tên làng dẫu có đổi thay, nhưng chữ “an”, “yên” vẫn được người làng giữ lại, như ý chí, khát vọng bền chặt của người xưa về một cuộc sống chỉ mong yên ổn, an bình.
Hơn 4 thế kỷ trôi qua kể từ thuở cư dân Việt đầu tiên ra Lý Sơn khai hoang, lập ấp, các địa danh hành chính, tên làng, xóm ở đặc khu Lý Sơn đã thay đổi nhiều lần. Song, những cư dân sống giữa bốn bề sóng nước vẫn luôn gửi gắm vào tên làng khát vọng về sự bình an. Theo thời gian, tên gọi làng, xã ở đặc khu Lý Sơn ngày trước chủ yếu sử dụng từ Hán Việt với hai âm tiết. Trong đó, nhiều nhất là nhóm từ thể hiện ước vọng về sự yên ổn, chẳng hạn như: An Hải, An Vĩnh, An Bình, An Hòa, Bình Vĩnh, Bình Yên, Trung Yên... Trong số đó, An Hải, An Vĩnh là địa danh có sớm nhất. Từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII dưới thời Lê Trung hưng và các chúa Nguyễn, cư dân Việt từ đất liền ra Lý Sơn đã lập ra hai phường là An Hải và An Vĩnh.

Mũi Ba Làng An, ở xã Đông Sơn là địa danh được đặt theo tên của 3 làng chài ven biển bắt đầu bằng chữ "an".
Xem tên làng là gốc gác, là nguồn cội, là tấm bia lịch sử, văn hóa của quê hương, nhiều cộng đồng dân cư đã lưu lại tên làng trên những công trình văn hóa, tín ngưỡng. Tại đặc khu Lý Sơn, đình làng An Vĩnh, đình làng An Hải gắn liền với làng An Hải, An Vĩnh được các thế hệ cư dân hết lòng gìn giữ, bảo vệ. Ở làng Đông Yên, tên làng cũng chính là tên của lăng vạn - nơi cộng đồng dân cư nơi này thờ cúng thờ cá Ông và tổ chức hội họp, sinh hoạt cộng đồng.
Ở xã Đông Sơn, có đền Quán Thánh thờ Quan Công, nằm trên vùng đất của làng An Hải trước đây. Câu đối trước đền đề rằng: “An định thịnh dương tiền nhập tạo/ Hải tự phong hòa hậu tu bồi. Địa danh làng xưa “An Hải” xuất hiện ở đầu hai vế đối, không chỉ gợi nhớ tên gọi làng xưa, mà còn khẳng định ý chí, khát vọng đầy dung dị của người xưa. Tên làng nhờ vậy mãi neo lại cùng thời gian và trong ký ức của cộng đồng dân cư ven biển ở Quảng Ngãi.