GS.TS Giang Thanh Long: 'Nghị quyết 72 đã nhận diện được bài toán dân số, tập trung nhóm đối tượng yếu thế'
GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên gia kinh tế học về dân số và chính sách xã hội khẳng định Nghị quyết 72 của bộ Chính trị đã nhận diện được bài toán dân số, chuyển mạnh từ chữa bệnh sang phòng bệnh, phát triển hệ thống y tế dự phòng, trong đó tập trung vào nhóm đối tượng yếu thế.
Bài toán dân số già hóa và áp lực bệnh mạn tính
Chia sẻ cùng phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân, GS.TS Giang Thanh Long cho biết các nghiên cứu đã chỉ ra rằng Việt Nam là một nước có thu nhập trung bình trung bình nhưng có tốc độ già hóa dân số thuộc nhóm nhanh nhất thế giới.

GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên gia kinh tế học về dân số và chính sách xã hội. Ảnh: Xuân Quý
Theo thống kê, các quốc gia phát triển có thể mất hàng trăm năm để chuyển từ dân số đang già lên thành dân số già, như Pháp mất 115 năm, Mỹ 69 năm, hay Nhật Bản - đất nước trước đây được coi là nhanh nhất thế giới cũng mất 26 năm để thay đổi cơ cấu dân số từ 7% người từ 65 tuổi trở lên trong tổng dân số lên 14%.
Tuy nhiên Việt Nam chỉ mất 18 năm cho quá trình này (2018 đến 2036). Điều này cũng cho thấy quy mô người cao tuổi có xu hướng tăng rất mạnh trong hai đến ba thập kỷ tới. Dự báo vào năm 2030, Việt Nam sẽ có khoảng gần 18 triệu người cao tuổi và sẽ tiếp tục tăng lên nhanh chóng, đạt mức 26,3 triệu người vào năm 2045.
“Mặt tích cực là dân số cao tuổi ở nước ta đang có xu hướng sức khỏe ngày càng tốt. Vì dân số cao tuổi tương lai chính là dân số trẻ hiện tại nên họ nhận thứ được sự cần thiết trong chăm sóc sức khỏe, do đó ta sẽ có dân số già khỏe mạnh hơn trong tương lai”, Giáo sư Long nhận định.
Tuy nhiên theo các báo cáo về xu hướng bệnh tật lại cho thấy Việt Nam đang đối mặt với bệnh tật kép vừa lây nhiễm, vừa không lây nhiễm, mạn tính. Đáng chú ý, tỷ trọng không lây nhiễm mạn tính với các bệnh như tim mạch, tiểu đường, xương khớp,… lại ngày càng cao và có xu hướng trẻ hóa. Thực tế này đang trở thành gánh nặng bệnh tật khá phổ biến ở Việt Nam.

Việt Nam đang có xu hướng dân số cao tuổi tăng lên nhanh chóng. (Hình minh họa)
Trước bối cảnh này, Giáo sư Long khẳng định Nghị quyết 72 ra đời nhấn mạnh những mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã xác định, thể hiện quyết tâm chính trị cao trong việc thay đổi hệ thống y tế một cách căn cơ để cung cấp những dịch vụ tiếp cận được, chi trả được và phù hợp với mọi người dân.
“Đặc biệt trong Nghị quyết 72 hướng tới nhóm dân số yếu thế, dễ tổn thương như người dân tộc thiểu số, người sống ở hải đảo, khu vực miền núi, người cao tuổi, người có thu nhập thấp… với khả năng tiếp cận dịch vụ y tế không cao”, Giáo sư Long nhận định.
Cùng với đó, quyết sách này nhấn mạnh rõ nét việc tập trung cho y tế dự phòng – chìa khóa giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết của Việt Nam trong hiện tại và tương lai, khi dân số chính thức bước vào giai đoạn già hóa.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng đầu tư cho y tế dự phòng mang lại hiệu quả cao ở nhiều khía cạnh. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu và đưa ra kết luận rằng, trong xu hướng già hóa dân số, cứ đầu tư 1 đô la cho y tế dự phòng có thể mang lại tới 3 đô la. Nghiên cứu còn cho thấy, với một số loại bệnh thì tỷ suất lợi tức mà y tế dự phòng mang lại còn cao hơn, ví dụ chi 1 đô la để chống thuốc lá có thể tiết kiệm đến 4 đô la trong việc điều trị các bệnh liên quan đến thuốc lá.

Nghị quyết 72 nhấn mạnh tạo điều kiện tối đa để người dân tiếp cận, sử dụng dịch vụ chăm sóc ban đầu tại y tế cơ sở. Ảnh: YT
Bên cạnh đó, Giáo sư Long cũng chỉ ra một điểm nhấn mạnh rất rõ trong Nghị quyết 72 đó là hướng hệ thống y tế tới những nhóm dân số yếu thế. Hệ thống y tế ở các vùng hải đảo xa xôi, miền núi, nông thôn,… có chất lượng không cao, cộng thêm hạn chế về nhân lực, cơ sở vật chất, hạ tầng đường xá khiến người dân khó tiếp cận hơn so với vùng đồng bằng hoặc các đô thị lớn.
“Nghị quyết 72 nhấn mạnh phát triển hệ thống bác sĩ gia đình, giúp kết nối người dân với hệ thống y tế. Giờ đây những người dân ở xa, mất cả ngày trời đi đường núi khó khăn mới đến trạm y tế xã, có thể được kết nối nhờ hệ thống bác sĩ gia đình”, Giáo sư Long nhận định.
Ngoài ra chính sách hiện nay cũng đưa ra chế độ bảo hiểm mạnh hơn để hỗ trợ cho người dân khám, chữa bệnh. Đơn cử như người dân sống ở vùng núi cao rất hiếm khi khám sức khỏe định kỳ nên khả năng phát hiện bệnh sớm rất khó và khi phát hiện thì bệnh đã ở giai đoạn nặng và khiến nhiều người “tán gia bại sản” để phục vụ việc khám, chữa bệnh.
Chính vì lý do đó việc tăng cường tiếp cận dịch vụ sức khỏe cho người dân thông qua hỗ trợ bảo hiểm y tế là bước đi rất đúng để giảm bớt những nguy cơ bệnh tật cũng như giảm bớt gánh nặng tài chính về lâu dài.
Triển khai Nghị quyết 72 - Tập trung vào những yếu tố cốt lõi
Với những giá trị nhân văn tập trung chăm sóc, nâng cao sức khỏe người dân, theo GS.TS Giang Thanh Long để triển khai Nghị quyết 72 trong đời sống một cách hiệu quả và thực chất, cần sớm triển khai một số giải pháp đột phá nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản.
Thứ nhất, cần củng cố lại hệ thống y tế cơ sở. Việc sáp nhập các địa phương, sắp xếp xã/phường dẫn đến thay đổi quy mô nên nguồn lực được tập trung hơn. Hiện nay quy mô và mức độ của trạm y tế xã phường cũng thay đổi về cơ sở vật chất, con người, trang thiết bị...
Chính vì vậy việc tăng cường y tế cơ sở là một trong những giải pháp giúp người dân tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Khi trạm y tế xã/phường ở gần nhà, khu dân cư, bản thân người dân sẽ ý thức hơn trong việc phòng bệnh, chữa bệnh, qua đó thay đổi hành vi của người dân về chăm sóc sức khỏe, đồng thời giúp hệ thống y tế tiếp cận với người dân tốt hơn.

Tăng cường y tế cơ sở là một trong những giải pháp giúp người dân tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Giáo sư Giang Thanh Long cũng nhận định một giải pháp quan trọng khác là nâng cấp hệ thống y tế dự phòng, được thể hiện thông qua việc phát triển vaccine hoặc phòng bệnh từ xa. Một minh chứng rõ nhất là trong thời điểm dịch căng thẳng nhất của đại dịch Covid-19, việc cung cấp vaccine đầy đủ, đúng thời gian và đúng địa điểm cho những nơi nhạy cảm đã giúp giảm thiểu hậu quả của dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe người dân.
“Việc thúc đẩy phát triển vaccine, đặc biệt là các nguồn vaccine phù hợp với người Việt Nam là những định hướng rất đúng để giảm bớt gánh nặng bệnh tật”, Giáo sư Long nhấn mạnh.
Giải pháp thứ ba, cần được triển khai nhanh chóng và hiệu quả là quan tâm phát triển nguồn nhân lực y tế. Hiện nay nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của toàn dân đã tăng lên do quy mô dân số và xu hướng bệnh tật cũng thay đổi.
Do đó, phát triển nguồn nhân lực y tế cần sự thay đổi một cách căn cơ, đặc biệt như liên quan đến chăm sóc lão khoa, chăm sóc dài hạn, chăm sóc xã hội… Đó đều là những giải pháp làm cho mục tiêu phòng chống bệnh tật, nâng cao sức khỏe toàn dân tốt hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, các ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực y tế đang phát triển với tốc độ nhanh chóng. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ứng dụng công nghệ là chìa khóa để nâng cao hiệu quả chẩn đoán, khám chữa bệnh.
Thực tế, các quốc gia hiện nay đang ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán bệnh từ sớm hiệu quả và Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi điều đó và đây cũng là một trong những nhiệm vụ được nhấn mạnh đặc biệt trong Nghị quyết 72 nhằm nâng cao sức khỏe toàn dân.
Bên cạnh đó, tỷ lệ người dân sử dụng internet, điện thoại thông minh ngày càng tăng là cơ hội để triển khai mạnh mẽ giải pháp thứ tư là số hóa hệ thống chăm sóc y tế như telemedicine, telehealth,… Ở Việt Nam, người cao tuổi đã có phần mềm S-Health không chỉ cập nhật thông tin của người bệnh mà còn giúp kết nối giữa bác sĩ với những người có nhu cầu chăm sóc về sức khỏe.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin có thể giúp nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe với mọi đối tượng, đặc biệt là người cao tuổi. (Hình minh họa)
Giải pháp thứ năm được Giáo sư Giang Thanh Long nhấn mạnh đó là tăng cường các nguồn lực cho hệ thống y tế, trong đó chú trọng tăng cường mức độ bao phủ bảo hiểm y tế.
“Quan trọng là bao phủ BHYT theo chiều ngang tức là tăng số lượng người tham gia, hiện nay đang là 95% và sẽ cố gắng là 100%, nhưng cái tăng rất quan trọng nữa đó chính là theo chiều dọc - mở rộng độ bao phủ của các dịch vụ, làm sao giảm bớt chi tiêu tiền túi của người dân cho công tác khám chữa bệnh.”
Với các đối tượng yếu thế, khó khăn về tài chính, gánh nặng bệnh tật có thể khiến nhóm đối tượng này "khánh kiệt". Với những lý do đó, vai trò của bảo hiểm y tế một lần nữa được nhấn mạnh trong Nghị quyết 72 như một nhiệm vụ tiên quyết.
Triển khai Nghị quyết 72 với các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra là bài toán cần sự chung tay của toàn xã hội. Là giảng viên cao cấp của Đại học Kinh tế Quốc dân với nhiều năm nghiên cứu và làm việc trong lĩnh vực giáo dục, theo GS.TS Giang Thanh Long, trường đại học, học viện, tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chính trị này.
“Với lĩnh vực hoạt động của mình, các đại học, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức quốc tế có thể cung cấp các bằng chứng quan trọng, con số thống kê thực tiễn; chỉ ra các vấn đề vướng mắc cụ thể như đang thiếu ở đâu, như thế nào, cái gì được, cái gì chưa được và từ đó đóng góp định hướng trong việc hoạch định chính sách”, Giáo sư Long đưa ra ví dụ.
Bài học quốc tế về chính sách chăm sóc sức khỏe người dân
Nghiên cứu bài học của các nước về chính sách chăm sóc sức khỏe cho người dân, GS.TS Giang Thanh Long cho rằng Việt Nam có thể ứng dụng những kinh nghiệm đó để phát huy giá trị nhân văn của Nghị quyết 72 về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Nhiều năm nay Thái Lan đã duy trì chương trình “30 Bath”, hỗ trợ nhóm người yếu thế trong xã hội tiếp cận với các dịch vụ y tế. Dù 30 bath không phải một số tiền lớn nhưng chương trình này đã làm thay đổi cách người dân, đặc biệt là người nghèo, tiếp cận với các dịch vụ y tế bằng cách hỗ trợ tài chính kết hợp với các gói bảo hiểm y tế sẵn có. Đến nay chương trình này đã nâng mức hỗ trợ lên con số lớn hơn cho phù hợp với sự phát triển của đời sống.
Nhật Bản cũng đã triển khai chính sách bảo hiểm chăm sóc dài hạn (LTCI) song hành với bảo hiểm y tế.
“Khi triển khai như vậy sẽ có nhiều lưới tài chính khác nhau và mở rộng mạng lưới người chăm sóc dẫn đến phúc lợi của mọi người dân, trong đó đặc biệt là người cao tuổi, cũng được đảm bảo”, Giáo sư Long nhận định.

Nhật Bản là quốc gia có hệ thống chăm sóc y tế rất tốt, đặc biệt là với người cao tuổi. (Hình minh họa)
Một điểm chung của những bài học này đó là xây dựng hệ thống y tế dựa trên quan điểm đầu tư thay vì chi tiêu, đồng nghĩa với việc đầu tư cho hiện tại để chăm sóc, nâng cao sức khỏe người dân nhằm tiết kiệm và giảm thiểu tối đa chi phí khám, chữa bệnh trong tương lai.
Đặc biệt trong bối cảnh các xu hướng lớn (như già hóa dân số, đô thị hóa, di cư, số hóa và trung lưu hóa) diễn ra ngày càng mạnh mẽ có thể làm cho một bộ phận dân số bị bỏ lại ở phía sau mà không tiếp cận, sử dụng được dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp.
Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thông điệp quan trọng được nhấn mạnh trong Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị bảo đảm mọi người dân - không phân biệt vùng miền, giàu nghèo - được tiếp cận các dịch vụ y tế thiết yếu, cơ bản mà không phải lo lắng về tài chính.
“ Về tổng thể sẽ còn rất nhiều nhiệm vụ phải làm để triển khai Nghị quyết 72 nhưng thông điệp quan trọng nhất vẫn là phòng bệnh hơn chữa bệnh, hướng đến giảm tối đa chi phí đồng chi trả của người dân, tăng độ bao phủ BHYT, giảm tử vong do phát hiện bệnh muộn và xây dựng hệ thống y tế công bằng, bình đẳng, hiệu quả, bền vững và không ai bị bỏ lại phía sau.”