GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng- 'bà tiên' của hàng nghìn gia đình Việt

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng - nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) đã có nhiều đóng góp to lớn cho y học nước nhà. Bà thường được nhắc tới là 'bà tiên với cây đũa thần' khi là người tiên phong đưa kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm về Việt Nam, mở ra cơ hội làm cha mẹ cho biết bao cặp vợ chồng hiếm muộn.

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng - nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) là người tiên phong đưa kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm về Việt Nam, mở ra cơ hội làm cha mẹ cho biết bao cặp vợ chồng hiếm muộn, giúp hàng nghìn em bé chào đời và mang lại niềm hạnh phúc cho hàng chục nghìn gia đình.

Xóa bỏ quan niệm "cây độc không trái, gái độc không con"

Theo GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, trong xã hội trước đây, phụ nữ thường phải chịu nhiều thiệt thòi và định kiến. Khi kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm chưa ra đời, việc gia đình không có con thường bị quy trách nhiệm lên người phụ nữ với quan niệm như "cây độc không trái, gái độc không con".

Bà chia sẻ: "Nhiều cặp vợ chồng đã phải ly hôn vì không thể có con. Tuy nhiên, khi cả hai tái hôn, chỉ gia đình mới của người phụ nữ có con. Điều đó cho thấy không thể đổ hoàn toàn lỗi không có con lên phụ nữ".

Hồi tưởng lại thời kỳ ấy, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng không giấu được xúc động khi nhắc về một cô gái quê Hải Dương. Cô gái từng quỳ gối, nắm lấy vạt áo và cầu xin bà giúp đỡ để có con, vì nếu không có con chồng cô sẽ bỏ cô.

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng. Ảnh: NVCC.

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng. Ảnh: NVCC.

"Cô ấy đã phải cắt bỏ cả hai vòi trứng sau 2 lần mang thai ngoài tử cung, khiến khả năng mang thai tự nhiên bằng không. Thời điểm đó, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm chưa có ở Việt Nam. Cô ấy nói với tôi rằng, nếu không được giúp đỡ, cô sẽ tự tử vì không chịu nổi sự ruồng bỏ từ chồng và gia đình chồng. Chứng kiến nỗi đau ấy, tôi quyết tâm bằng mọi giá phải đưa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về Việt Nam", GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ.

Năm 2000, Bộ Y tế thực hiện một cuộc điều tra, kết quả đưa ra có 7% các cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ có vấn đề về hiếm muộn. Tình trạng này hiện nay phổ biến ở các nước khác trên thế giới. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này.

Theo GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, hiện nay, nhiều phụ nữ lựa chọn kết hôn muộn vì muốn hoàn thành việc học hoặc ổn định sự nghiệp trước khi lập gia đình. Tuy nhiên, tuổi càng lớn, dự trữ buồng trứng càng giảm, dẫn đến nguy cơ cao phải điều trị hiếm muộn. Ngoài ra, không ít người dù đã kết hôn nhưng chưa muốn có con ngay, bỏ lỡ "thời kỳ vàng" để sinh sản. Trong những trường hợp này, GS. Phượng thường phải thuyết phục bệnh nhân không trì hoãn việc sinh con quá lâu.

Ngày nay, với các phương tiện chẩn đoán hiện đại, nhiều người phát hiện bất thường về sức khỏe và chọn không lập gia đình hoặc không có con. Thậm chí, có người sau khi sinh một con đã quyết định không sinh thêm. Tuy nhiên, việc kết hôn và sinh con quá muộn sẽ làm tăng nguy cơ khó có con, một thực tế mà chúng ta cần lưu ý hơn.

Năm 1994, trong thời gian làm việc tại Thái Lan, GS. Ngọc Phượng tình cờ phát hiện rằng quốc gia này đã triển khai kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm từ rất sớm, với sự chuẩn bị từ năm 1984. Chứng kiến nhiều cặp vợ chồng Việt Nam phải ra nước ngoài tìm kiếm cơ hội làm cha mẹ, GS. Phượng quyết tâm mang kỹ thuật tiên tiến này về Việt Nam để giúp đỡ các gia đình trong nước.

Bỏ qua sĩ diện, "mặt dày" gặp ai cũng xin

Thời điểm đó, điều trị hiếm muộn gần như chỉ dành cho những người có điều kiện kinh tế tốt, đủ khả năng ra nước ngoài thực hiện. Tuy nhiên, việc xin visa cũng rất khó khăn, thường phải nhờ vào các mối quan hệ. Những ai không đủ điều kiện đành chấp nhận sống trong nỗi đau không có con suốt đời.

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ: "Tôi biết có phương pháp này và nếu không mang về để điều trị cho các gia đình ở Việt Nam thì lương tâm tôi không thể yên. Vì vậy, mỗi khi có đoàn nước ngoài đến, tôi luôn trao đổi với họ về thực trạng vô sinh hiếm muộn ở nước ta, nhấn mạnh nhu cầu cần thêm trang thiết bị, máy móc để có thể thành lập đơn vị điều trị thụ tinh trong ống nghiệm".

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng sinh năm 1944, hiện là Phó Chủ tịch không chuyên trách Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam.

Trước đó, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng nguyên là Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ TP.HCM, nguyên Viện trưởng Viện Tim TP.HCM, nguyên Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Mỹ Thành phố. Bà đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân và Huân chương Lao động hạng Ba.

Năm 2024, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng được trao giải thưởng Ra- mon Magsaysay. Đây là giải thưởng được coi là "Giải Nobel châu Á" nhằm tôn vinh những người "phục vụ quên mình vì sự phát triển của các dân tộc châu Á".

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng xúc động nhớ lại quãng thời gian bị chỉ trích là "mặt dày" vì gặp ai cũng xin hỗ trợ. Khi đó, nhiều người cho rằng một đất nước nghèo như Việt Nam còn lo chạy ăn, giảm dân số, tại sao lại điều trị hiếm muộn. Không một tổ chức quốc tế nào viện trợ, nhưng chính nghị lực và quyết tâm của bà đã khiến Sở Y tế TP.HCM đồng ý thực hiện ca mổ cặp song sinh Việt - Đức tại Bệnh viện Từ Dũ.

Vì lo ngại thời gian mổ kéo dài khiến vi trùng, vi khuẩn thấm qua tường và sàn, làm không khí trong phòng không còn đảm bảo vô trùng, GS. Phượng hiểu rằng cặp song sinh cần được sinh ra trong môi trường vô trùng tuyệt đối. Bà tiếp tục nỗ lực xin kinh phí để cải tạo toàn bộ khu vực phòng mổ, từ tường, trần đến sàn và các phòng xung quanh, đảm bảo an toàn cao nhất cho ca mổ lịch sử.

Sau khi ca phẫu thuật tách rời cặp song sinh Việt - Đức thành công, Giám đốc Sở Y tế TP.HCM, ông Dương Quang Trung, đã quyết định "thưởng" cho GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng bằng một chuyến "tu nghiệp" tại Pháp. Tuy nhiên, với năng lực và lý lịch ấn tượng, GS. Phượng không chỉ tham gia học tập mà còn được mời làm giáo sư giảng bài tại Pháp. Trong thời gian này, GS. Phượng không ngừng học hỏi các kiến thức y khoa hiện đại, đồng thời bắt tay vào hiện thực hóa ước mơ mang kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về Việt Nam.

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ kiến thức cho bác sĩ trẻ. Ảnh: NVCC.

GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ kiến thức cho bác sĩ trẻ. Ảnh: NVCC.

"Thông thường, giáo sư được bố trí chỗ ở riêng biệt, nhưng tiền thuê ở Pháp rất cao, khoảng 3000 franc. Tôi quyết định ở chung với các bác sĩ khác để tiết kiệm được 2500 franc. Số tiền đó, tôi dành mua các dụng cụ, máy móc cần thiết cho kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và gửi dần về Việt Nam. Khi tôi trở về nước, các trang thiết bị đã gần như đầy đủ", GS. Phượng tự hào chia sẻ.

Không dừng lại ở việc mang kỹ thuật về nước, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã sử dụng số tiền còn lại để tạo điều kiện cho bác sĩ Việt Nam sang Pháp học thêm về kỹ thuật xét nghiệm thụ tinh trong ống nghiệm. Sau đó, bà tiếp tục gửi các trưởng khoa, điều dưỡng, bác sĩ, thành viên ban giám đốc và phòng kế hoạch tổng hợp tham gia các khóa đào tạo chuyên môn ở nước ngoài.

"Việc đi học là để trau dồi kiến thức. Khi đã có kiến thức và trang thiết bị đầy đủ, công việc mới thuận lợi và việc triển khai phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ mới có thể thành công", GS. Phượng khẳng định.

Năm 1993, khi ca nhiễm HIV đầu tiên xuất hiện, Sở Y tế TP.HCM đã ra lệnh cấm việc sử dụng tinh trùng để bơm trực tiếp vào tử cung phụ nữ, yêu cầu bắt buộc phải có ngân hàng tinh trùng.

Để đáp ứng yêu cầu này, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã chủ động xin phê duyệt quy chế và trình lên Sở Y tế, qua đó được chấp thuận thành lập ngân hàng tinh trùng. Để vận hành ngân hàng này, mọi quy trình đều phải tuân thủ nghiêm ngặt như người hiến tinh trùng phải được xét nghiệm toàn diện, tinh trùng được kiểm tra kỹ lưỡng và theo dõi trong 6 tháng. Chỉ khi xác nhận người hiến không nhiễm HIV, tinh trùng đạt tiêu chuẩn mới được bảo quản và sử dụng. Tất cả nhằm đảm bảo chất lượng, an toàn và sức khỏe cho người nhận.

Trải qua rất nhiều khó khăn thách thức, năm 1997, khi máy móc gần hoàn thiện, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cùng đoàn chuyên gia Pháp tiến hành những ca thụ tinh ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam.

Ngày kỷ niệm 23 năm thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/1998), 3 em bé chào đời nhờ kỹ thuật này, mở ra hy vọng cho hàng ngàn cặp vợ chồng hiếm muộn. Từ đó, kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm tại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn với tỷ lệ thành công cao. Nhờ "bà tiên Phượng" mà hàng nghìn đứa trẻ được sinh ra, đem lại niềm vui cho rất nhiều gia đình.

Một ca mổ bắt con tại BV Từ Dũ. Ảnh: NVCC

Một ca mổ bắt con tại BV Từ Dũ. Ảnh: NVCC

Nhận thấy nhiều phụ nữ ở miền Bắc phải vào tận Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) để điều trị hiếm muộn, gây ảnh hưởng đến công việc và sinh hoạt gia đình, năm 1999 GS. Phượng đã quyết định hỗ trợ triển khai kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tại Hà Nội. Bà bắt đầu bằng việc hỗ trợ Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh (Hà Nội). Đến năm 2000, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tại Hà Nội đi vào hoạt động và sớm gặt hái thành công.

Khởi xướng chương trình "Ươm mầm hạnh phúc"

Theo GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, đưa phương pháp chỉ là một phần tạo điều kiện. Hiện nay, có rấtnhiều gia đình không đủ kinh phí để thực hiện thụ tinh ống nghiệm. Thực tế, mỗi ca thụ tinh ống nghiệm mất khoảng 100 triệu đồng. Vậy nên, năm 2014, GS. Phượng đã khởi xướng chương trình "Ươm mầm hạnh phúc" nhằm giúp đỡ các cặp vợ chồng khó khăn, không có đủ tiền làm thụ tinh trong ống nghiệm.

Chương trình được GS. Phượng khởi xướng năm 2014. Từ một chương trình với mong muốn giúp đỡ gia đình hiếm muộn có hoàn cảnh khó khăn chỉ vỏn vẹn 30 ca/ năm, đến nay đã nâng lên thành 100 ca mỗi năm. Trải qua 10 mùa liên tiếp, chương trình "Ươm mầm hạnh phúc" mang đến hy vọng và mở ra cơ hội điều trị cho gần 600 cặp vợ chồng.

Tính đến 30/6/2024, các trường hợp điều trị tại TP.HCM, Đà Nẵng, Bình Dương, Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk có 59 trường hợp có thai diễn tiến. Các trường hợp chưa chuyển phôi hoặc chuyển phôi nhưng chưa có thai đã quay lại một trong các cơ sở của hệ thống IVFMD để tiếp tục điều trị và chuẩn bị chuyển phôi đông lạnh.

"Khi đưa một kỹ thuật cao, thành tựu khoa học về nước, đối tượng phục vụ không chỉ là người có điều kiện mà có cả người hoàn cảnh khó khăn. Tất cả mọi người đều xứng đáng được thụ hưởng quyền lợi và hạnh phúc. Để giúp họ, chúng tôi kêu gọi những tấm lòng nhân ái để quyên góp tiền", GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ.

Nam Thương

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/gs-nguyen-thi-ngoc-phuong-ba-tien-cua-hang-nghin-gia-dinh-viet-169250227130331913.htm
Zalo