Giữa lòng Hà Nội, tôi vẫn nghe tiếng sóng Cà Mau...
Hơn 7 năm khoác ba lô vào Cà Mau, tôi vẫn nhớ như in buổi sớm đầu tiên khi những cơn gió mằn mặn từ biển Tây thổi qua vai áo. Trời đất nơi địa đầu cực Nam hôm ấy rộng đến mức khiến sĩ quan trẻ như tôi vừa háo hức, vừa choáng ngợp. Những hàng đước nghiêng mình theo con nước, những con đường xuyên rừng thẳng tắp, mái nhà thưa thớt chạy dọc bãi bồi - tất cả đều mới lạ, xa xôi. Nhưng rồi, bằng một cách rất tự nhiên, Cà Mau dần đi vào đời sống của tôi, thấm vào từng bước chân và trở thành một phần ký ức mà dù có qua bao năm tháng vẫn không thể phai mờ.
Lính biên phòng vốn quen gian khó, nhưng cái gian khó ở Cà Mau có vị rất riêng. Ðó là tiếng sóng vỗ bờ không bao giờ ngơi nghỉ, là những chuyến tuần tra xuyên đêm giữa mùa gió chướng thổi hun hút qua tán rừng ngập mặn; là những cái Tết chỉ kịp gửi về nhà lời chúc vội, rồi lại quay về với phiên gác. Có những đêm trời tối như mực, biển đen đặc, chỉ còn ánh đèn tàu xa xa lẫn vào mưa gió, anh em biên phòng vẫn bám biển để giữ bình yên cho ngư dân. Và cũng có những buổi chiều đứng trước cột mốc chủ quyền rực lên trong hoàng hôn đỏ lửa, tôi mới hiểu sâu sắc rằng: sức mạnh của người lính nơi đây không chỉ đến từ kỷ luật thép, mà còn từ tình người, từ niềm tin của bà con gửi gắm, từ đất và gió của Cà Mau nâng đỡ.
Cà Mau dạy tôi biết sống chậm lại giữa nhịp quân ngũ đầy bận rộn; dạy tôi biết thương hơn, trân trọng hơn những điều giản dị. Bài học đến từ tiếng cười giòn tan của những đứa trẻ vùng bãi bồi chạy lon ton trước sân đồn, hỏi tôi: “Chú bộ đội hôm nay trực à?”; là những cụ già mỗi lần ghe ghé ngang đồn đều gửi biếu bó rau, con cá, bảo: “Mấy chú ăn cho khỏe để làm tốt nhiệm vụ, giữ đất quê hương nghen!”; là những buổi xuống địa bàn vận động bà con không vi phạm vùng biển nước ngoài, giữa nắng cháy gắt mà ai nấy vẫn cười hiền, gật đầu tin bộ đội; hay ánh đèn vàng trong những “Tiết học biên cương”, nơi từng con chữ, từng câu chuyện về chủ quyền được gieo bằng tất cả tình thương dành cho thế hệ mai sau...
Giữa tình người ấy, tôi nhớ mãi hình ảnh bà ngoại miền Tây - người bà mà tôi quen trong những ngày xuống cơ sở. Tóc bạc phơ, giọng run run nhưng ấm áp, ngoại hay nói: “Mấy chú bộ đội cực khổ, đất này nghèo nhưng tình không thiếu”. Mỗi lần ghé thăm, ngoại lại dúi vào tay chúng tôi mấy cái bánh ít, vài trái chuối chín, bảo để ăn trên chốt cho đỡ buồn. Tôi biết đó là tấm lòng chân chất, là tình thương bộ đội như con cháu trong nhà. Ðến giờ, mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn thấy ấm lòng, như có bóng ngoại đứng bên bếp lửa quê mộc mạc, chở che.

Minh họa: MINH TẤN
Ngày nhận quyết định chuyển công tác về Hà Nội, tôi đứng lặng thật lâu như muốn níu lại khoảnh khắc nơi vùng đất cuối trời Nam mà mình đã gắn bó. Niềm vui có chứ, bởi đó là bước ngoặt mới, là cơ hội để trưởng thành hơn, để mở rộng tầm nhìn trong môi trường công tác mới. Nhưng sâu thẳm trong lòng, một nỗi trĩu nặng lạ thường ập đến: nỗi bâng khuâng, tiếc nuối, không muốn rời miền đất đã trở thành nhà.
Gần thập kỷ sống giữa gió mặn, sóng biển, giữa những con người chân chất, hiền hậu, Cà Mau không chỉ là điểm đến của nhiệm vụ mà trở thành miền quê thứ hai, nơi tôi học được cách sống chậm lại; học được sự kiên cường trong công việc và cả trong trái tim; học được cách trưởng thành từ những tình cảm giản dị nhưng sâu đậm của bà con, đồng đội và những đứa trẻ vùng bãi bồi.
Tại đây, tôi trưởng thành từ cách nghĩ, cách sống đến bản lĩnh của người lính biên phòng, không chỉ trên các chốt trực hay trên biển trời, mà còn trong cách trân trọng những khoảnh khắc đời thường, quý trọng niềm tin, tình cảm của người dân địa phương. Cà Mau đã cho tôi những trải nghiệm nghề nghiệp và trong sâu thẳm, miền đất yêu thương này đã bồi đắp cho tôi một phần tâm hồn, một phần trái tim để sống yêu thương, ý nghĩa hơn giữa cuộc đời.
Tôi rời Cà Mau mang theo tiếng sóng biển Tây, vị mặn của gió, dáng đứng kiên cường của những cột mốc chủ quyền. Mang theo tình cảm của đồng chí, đồng đội, những người đã cùng tôi chia từng chén cơm, vượt qua từng trận bão, thức trắng hàng đêm trong những đợt cao điểm. Mang theo cả tấm lòng của bà con - những cái bắt tay chặt, lời hỏi thăm mộc mạc và nghĩa tình đậm sâu.
Giữa nhịp sống sôi động của Thủ đô, đôi lúc tôi vẫn bất giác nhớ tiếng sóng ào ạt ngoài bãi bồi, nhớ từng đợt gió mặn sực lên từ biển, nhớ vòng tay siết thật chặt của bà con Nhân dân sau mỗi chuyến dân vận trở về lúc trời đã tối. Nhớ những chiều đứng đầu con tàu, nhìn biển trời giao hòa và cảm nhận rõ ràng mình đang đứng ở nơi đất nước bắt đầu. Nhớ bà ngoại miền Tây với nụ cười hiền như phù sa, nhớ những con đường rừng gập ghềnh mà mỗi lần đi qua là một lần yêu thêm mảnh đất này.
Cà Mau đã cho tôi thời gian thanh xuân đẹp nhất - quãng đời mà mỗi bước chân đều in lên phù sa, mỗi giọt mồ hôi đều hòa vào gió biển mặn mòi. Ở nơi cuối trời ấy, tôi đã sống bằng tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, đã cống hiến bằng tất cả những gì một người lính biên phòng có thể dành cho Nhân dân. Ðó là những tháng ngày chan chứa tình nghĩa quân - dân, bền bỉ như những gốc đước bám sâu vào lòng đất mặn, càng qua bão dông càng vững chãi.
Ðể rồi giờ đây, khi rời xa Cà Mau, mỗi lần nhớ lại, lòng tôi lại dâng lên cảm xúc khó gọi tên - thứ cảm giác vừa thương, vừa biết ơn, vừa tự hào. Tôi bỗng thấm thía câu thơ của Nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”.
Ðúng vậy, Cà Mau ngày tôi đặt bước chân đầu tiên chỉ là điểm đến của nhiệm vụ, nhưng ngày tôi đi, nơi ấy đã hóa thành miền thương nhớ, hóa thành một phần tâm hồn người lính, không thể tách rời, không thể quên.
Tôi tin rằng, dù bước chân mình có đi đến đâu, dù nhiệm vụ mới có nhiều thử thách đến mức nào, thì những năm tháng được trui rèn ở vùng đất địa đầu cực nam Tổ quốc ấy vẫn sẽ là ngọn đèn dẫn lối - một ngọn đèn không bao giờ tắt trong trái tim người lính biên phòng, với ánh sáng ấm áp, bền bỉ, soi đường cho tôi đi tiếp hành trình phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân./.


































