Giữ lửa nghề, giữ hồn quê

Hơn 30 năm trước, xóm lò đất Đầu Doi, xã Hòn Đất từng tấp nập ghe thương lái. Giờ nơi đây không còn sầm uất như xưa, nhưng trong cái lặng lẽ ấy, người thợ Lâm Bảo Sơn vẫn miệt mài giữ lửa cho lò đất, như cách anh gìn giữ một phần hồn cốt cha ông.

Anh Lâm Bảo Sơn, ngụ xã Hòn Đất đang xử lý đất để làm lò. Ảnh: BẢO TRÂN

Anh Lâm Bảo Sơn, ngụ xã Hòn Đất đang xử lý đất để làm lò. Ảnh: BẢO TRÂN

Lửa lò chưa tắt

Dưới nắng sớm, chúng tôi tìm về xóm Đầu Doi - nơi từng được biết đến với cái tên xóm lò đất. Có thời điểm, nơi đây có hơn 200 hộ dân sống bằng nghề nung lò. Nay chỉ còn lác đác 5 - 7 hộ bám trụ, trong đó hộ anh Lâm Bảo Sơn (41 tuổi) là cơ sở lớn nhất vẫn duy trì ổn định. Gần 30 năm “sống” cùng đất, anh Sơn thuộc nằm lòng từng công đoạn, từ chọn đất, xử lý, tạo khuôn đến nung lò. “Nghề làm lò đất ở đây đã có hơn 100 năm, bắt nguồn từ bàn tay khéo léo của đồng bào Khmer bao đời gắn bó với đất, lửa và nhịp sống cần mẫn. Tôi muốn giữ nghề mẹ truyền lại. Còn làm được ngày nào, tôi còn giữ nó ngày đó”, anh Sơn chia sẻ.

Để ra lò một mẻ thành phẩm là cả quá trình kỳ công kéo dài hơn nửa tháng, từ việc đi chọn đất ruộng sâu, mang về trộn máy, đắp khuôn, nắn hình, phơi nắng vài ngày, rồi nung bằng trấu, rơm, tro suốt 3 ngày 3 đêm, sau đó phải ủ nguội thêm vài hôm nữa mới xong. “Mỗi mẻ cho ra khoảng 700 sản phẩm, nhưng không phải cái nào cũng đạt, đôi khi còn hao hụt do bị nứt, bể”, anh Sơn nói, vừa nhẹ tay phủi lớp bụi tro trên chiếc lò vừa hoàn thiện.

Hiện cơ sở của anh sản xuất ba loại lò chính gồm: Lò than, lò củi và lò bung, có giá từ 30.000 - 98.000 đồng/cái. Lò Đầu Doi nổi tiếng bền, giữ nhiệt tốt, được ưa chuộng ở miền Tây. Tuy nhiên, thị trường ngày càng thu hẹp. Ít thương lái tìm đến đặt hàng, anh Sơn giờ phải tự chở hàng đi bỏ mối ở tỉnh Cà Mau và một vài tỉnh lân cận khác, vất vả hơn gấp bội lần. “Làm nghề này cực lắm mà lời “meo”… Chủ yếu lấy công làm lời. Nếu thuê người làm hết thì chỉ huề vốn, có khi còn lỗ. Lúc nung mà bể lò là mất trắng luôn”, anh Sơn nói.

Bà Thị Em, ngụ ấp Thạnh Hòa 2, xã Định Hòa giới thiệu hoa văn trên từng đôi chiếu. Ảnh: BẢO TRÂN

Bà Thị Em, ngụ ấp Thạnh Hòa 2, xã Định Hòa giới thiệu hoa văn trên từng đôi chiếu. Ảnh: BẢO TRÂN

Nghệ thuật trên từng sợi lát

Rời xóm lò, chúng tôi tìm đến ấp Thạnh Hòa 2, xã Định Hòa - nơi tiếng khung dệt của đồng bào Khmer vẫn còn vang lên lách cách trong một vài nếp nhà. Khoe với chúng tôi tấm chiếu vừa dệt xong, bà Thị Em (60 tuổi), ngụ ấp Thạnh Hòa 2 kể chuyện nghề, giọng đầy tự hào nhưng cũng ẩn chứa nỗi trăn trở: “Nghề nghệ dệt chiếu này ông bà truyền lại cho cha mẹ, rồi đến thế hệ của tôi. Tôi cũng dạy cho cả bốn đứa con đều biết dệt chiếu nhưng chẳng ai theo nghề. Chắc buôn bán, làm công nhân dễ kiếm sống hơn”.

Dù thị trường tiêu thụ hiện nay không còn sôi động như trước, nhưng chiếu đồng bào Khmer vẫn được nhiều người tìm mua nhờ chất liệu dày dặn, bền chắc, nằm mát, dễ chịu. Chỉ vào một mẫu chiếu, bà Em nói: “Những mẫu như Mặt gối, Mắt me, Nam Giang, Long Mia... thường dùng trong lễ cưới, Tết Chol Chnam Thmay hay làm quà biếu... Mỗi mẫu chiếu sở hữu hoa văn đặc trưng và ý nghĩa riêng biệt”.

Quy trình làm chiếu bắt đầu từ việc phơi lát cho khô rồi đem nhuộm màu. Sợi lát được xỏ vào khuôn theo mẫu đã định sẵn. Mỗi chiếc chiếu dài khoảng 1,6m được dệt hoàn toàn bằng tay với sự phối hợp nhịp nhàng của hai người. Một người xỏ lát, người kia dùng cây thọt để luồn từng sợi qua khuôn. Mỗi ngày, hai người làm được một cặp chiếu, giá từ 400.000 - 500.000 đồng/cặp tùy loại.

Hôm đi cùng chúng tôi, một cán bộ phụ nữ ở xã trăn trở: “Nghề dệt chiếu ở đây đã có lâu đời. Năm 2013, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã thành lập tổ hợp tác dệt chiếu với gần 20 thành viên, phần lớn là phụ nữ đồng bào Khmer. Nhưng đến nay chỉ còn vài hộ theo nghề vì thu nhập thấp, nguyên liệu khan hiếm. Để duy trì nghề, một số hộ dành phần đất quanh nhà trồng cây lát, cây bố để có nguyên liệu làm chiếu”.

Bà Thị Hận và con dâu làm bánh dứa. Ảnh: BẢO TRÂN

Bà Thị Hận và con dâu làm bánh dứa. Ảnh: BẢO TRÂN

“Gói” hồn quê qua từng chiếc bánh

Chúng tôi men theo con đường nhỏ vào ấp 3, xã An Biên ghé thăm bà Thị Hận - một phụ nữ đồng bào Khmer đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề làm bánh dứa, bánh gừng. Trong căn bếp nhỏ, mùi nếp, lá dứa, dừa, đậu phộng hòa quyện. Từng chiếc bánh lần lượt ra lò tỏa hương thơm ngào ngạt. “Từ nhỏ đã được bà và mẹ dạy làm bánh truyền thống. Tôi đi khắp nơi tham gia các lễ hội để quảng bá món bánh truyền thống của quê hương, dân tộc mình”, bà Hận vừa nói, tay xoay chảo, tay nhịp nhàng như một điệu múa đã thuộc lòng từ thuở nhỏ.

Bánh dứa hay còn gọi là bánh rây, đồng bào Khmer gọi là “Ọm Chiếl”. Từ lâu là món ngon quen thuộc trong đời sống ẩm thực hàng ngày của đồng bào. Đối với bà Hận, nghề làm bánh còn là niềm tự hào của gia đình khi từng giành nhiều huy chương vàng, bạc tại các lễ hội ẩm thực bánh dân gian Nam bộ. Theo bà Hận, làm bánh dứa là cả một nghệ thuật đòi hỏi sự khéo tay và kinh nghiệm. Từ khâu chuẩn bị nguyên liệu đến kỹ thuật rây bột lên chảo, cuốn bánh, tất cả đều phải thực hiện nhịp nhàng, tinh tế. “Bột mà pha không đúng tỷ lệ sẽ làm bánh bị cứng. Rây không đều tay thì bánh không ngon. Lửa cũng phải giữ đều, nếu không bánh sẽ bị khét hoặc không lên màu đẹp”, bà Hận chia sẻ bí quyết với vẻ say sưa của người thợ lành nghề.

Bánh của bà Hận được nhiều khách đặt mua sỉ, không chỉ vì vị ngon mà còn vì sự trân quý với nghề. Chị Thị Thanh, con dâu bà Hận nói: “Được mẹ truyền nghề, tôi rất vui. Vừa giữ được bản sắc vừa có thu nhập. Tôi sẽ tiếp tục theo nghề và truyền lại cho con cháu”.

Khi câu chuyện của bà Hận vừa khép lại còn “đọng” trong mùi nếp, chúng tôi nhớ đến bà Neáng Phương ở xã Ô Lâm, một trong những nghệ nhân hiếm hoi còn giữ nghề làm bánh Kà tum, cũng là loại bánh truyền thống gắn với đời sống đồng bào Khmer ở An Giang qua nhiều thế hệ. Chuyện bền bỉ giữ nghề đã một lần nữa thôi thúc chúng tôi tìm về vùng Bảy Núi. Hơn 40 năm qua, bà Neáng Phương hàng ngày vẫn thắt từng nếp lá thốt nốt, gói ghém hồn quê trong từng chiếc bánh. “Loại bánh này chỉ có thể tìm thấy ở vùng Bảy Núi, bánh tượng trưng cho sự sung túc, đủ đầy, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong nghệ thuật ẩm thực dân gian của đồng bào Khmer nơi đây”, bà Neáng Phương nói khi đưa cho chúng tôi xem chiếc bánh nhỏ, hình dáng như trái lựu, được gói tỉ mỉ bằng lá thốt nốt non. Từng nút thắt được vặn khéo để giữ chặt nhân bánh mà không rách lá.

Để làm bánh, trước đó vài ngày, bà Phương phải đặt lá thốt nốt non để làm vỏ bánh Kà tum. Lá thốt nốt dùng để làm vỏ bánh phải được lựa chọn kỹ lưỡng, lá non nhưng đủ độ dai, được chuốt thẳng đều và đan khít để không làm rò rỉ nhân khi nấu. Bà Neáng Phương chia sẻ: “Vỏ bánh phải kín, đẹp, không để nước lọt vào làm hỏng nhân bên trong. Vẻ ngoài hoàn hảo là yếu tố đầu tiên để khách chọn mua”. Phần nhân bánh là sự kết hợp hài hòa giữa nếp dẻo thơm, đậu trắng, dừa nạo và chút muối, đường, tất cả đều được sơ chế kỹ và trộn theo tỷ lệ chuẩn.

Dù làm kỳ công, nhưng một chiếc bánh chỉ bán giá 6.000 đồng. Mỗi ngày, bà Phương làm khoảng 100 cái, thu nhập chẳng đáng bao nhiêu. Với bà, giữ nghề không vì thu nhập mà bởi tình yêu và trách nhiệm gìn giữ văn hóa tổ tiên. Hơn 40 năm theo nghề, bà không chỉ giữ gìn bí quyết gia truyền mà còn truyền dạy lại cho nhiều phụ nữ trong và ngoài xã cách đan khuôn, gói bánh. “Tôi chỉ mong có nhiều chị em trẻ đến học nghề để cùng nhau giữ nghề, niềm tự hào của dân tộc”, bà Neáng Phương nói, ánh lên niềm tự hào.

Rời Bảy Núi, trời đã nhá nhem. Chúng tôi chưa kịp ghé thăm cô gái Khmer dệt thổ cẩm, đành lỡ một cuộc hẹn đã hứa. Nhưng trên hành trình hôm ấy, những người thợ giữ lửa ở xóm lò đất, tiếng khung dệt lặng lẽ nơi góc nhà hay mùi bánh thơm ngan ngát giữa gian bếp nhỏ… tất cả đã đủ để khắc ghi một điều: “Dù gió thời cuộc có thổi qua bao lần thì ngọn lửa nghề truyền thống sẽ không bao giờ tắt, nếu còn người gìn giữ”.

(Còn tiếp)

B. TRÂN - T.LY - D.THÀNH

Nguồn An Giang: https://baoangiang.com.vn/giu-lua-nghe-giu-hon-que-a426249.html
Zalo