Giữ 'hồn làng' trong nhịp sống hiện đại (Bài 3): Giữ gìn và phát huy
Văn hóa không tự nhiên mà có nhưng sẽ có thể mai một, biến mất nếu không được chăm chút, vun đắp. Trong nhịp sống hiện đại, câu chuyện bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng càng trở nên quan trọng.

Mỗi người dân là chủ thể sáng tạo, gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa làng. Ảnh: Xuân Văn
Cố nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Anh Nhân, tác giả sách Văn hóa làng và làng văn hóa khi bàn về văn hóa đã cho rằng: “Văn hóa làng, có thể hiểu một cách khái quát nhất là bản sắc riêng của làng, là toàn bộ cuộc sống của làng với những đặc điểm mang tính chất truyền thống từ ăn ở, đi lại, mọi hoạt động, cách tổ chức, những quy ước, lối ứng xử những phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng cho đến cả tâm lý của mọi thành viên trong làng với những đặc trưng riêng của nó... Song văn hóa vừa mang đặc điểm chung, vừa mang những đặc điểm riêng, vì vậy nói đến văn hóa làng, không chỉ nói đến bản sắc riêng mà còn có những đặc điểm chung vốn có...”.
Và ông cho rằng, nói đến văn hóa làng cần phải nhắc đến tính chất truyền thống. “Nói tính chất truyền thống ở đây không nên hiểu đơn giản là những cái thuộc về quá khứ, xa xưa và do đó đi đến chỗ cho rằng, nó trở nên lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với hiện tại... mà chính những cái đã được thử thách qua thời gian, đã được lựa chọn, bảo lưu, gìn giữ và phát triển. Mọi sự vận động bao giờ cũng tuân theo quy luật... Trở về với cội nguồn không phải quay về với quá khứ mà để tìm ở tổ tiên ta lòng nhân ái để tự điều chỉnh mình trong mối quan hệ với cộng đồng nhân loại”.
Gìn giữ văn hóa làng là giữ gìn những nét đẹp văn hóa truyền thống gắn bó với lớp lớp thế hệ người dân - tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi làng quê. Mọi sự lãng quên đều dễ dàng song có những thứ khi không còn sẽ là mất mát rất lớn, đặc biệt là văn hóa.
Khi về làng Trịnh Xá, ghé thăm Nghệ nhân Ưu tú (NNƯT) Trịnh Đình Quý - người có nhiều đóng góp trong khôi phục trò Chiềng sau hơn nửa thế kỷ bị mai một, tôi thêm cảm phục tâm huyết gìn giữ văn hóa quê hương của người con làng Trịnh Xá.
Từng là trò diễn nổi tiếng khắp vùng nhưng năm 1945 cũng là năm cuối cùng trò Chiềng làng Trịnh Xá được tổ chức. Sau đó, chiến tranh, bom đạn và nhiều nguyên do khiến trò Chiềng chỉ còn được nhắc nhớ trong chuyện kể của những người dân làng Trịnh Xá.
“Tôi sinh năm 1943, chưa từng một lần được xem diễn trò. Nhưng tôi may mắn khi cả hai bên nội, ngoại đều là những người làm cái trò, con trò. Mẹ tôi cũng là cái trò có tiếng. Bà thường kể cho tôi nghe chuyện làng mình có một trò Chiềng hay đến thế... cứ như thế, trò “ngấm” vào tôi tự lúc nào không hay. Quãng những năm 90 của thế kỷ trước, rời quân ngũ trở về, khi có dịp ngồi với các cụ cao niên trong làng, tôi lại nghe các cụ ước ao, giá có thể thêm một lần được diễn lại trò... Tất cả những điều đó thôi thúc tôi phải làm gì đó để... giữ lại trò Chiềng. Nghĩ là làm, tôi lên xã trình bày ý kiến, xin tổ chức một số buổi họp dân để lắng nghe đóng góp của mọi người về trò, ai nhớ gì kể nấy, tôi ghi chép cẩn thận từng chút một”, NNƯT Trịnh Đình Quý chia sẻ.
Năm 2007, phải mất đến hơn 15 năm sưu tầm, chắp nối, trò Chiềng lần đầu tiên được khôi phục tổ chức. Và nếu tính từ năm 1945 thì 62 năm trò Chiềng mới được diễn lại trong niềm vui, sự phấn khởi, chờ đón của người dân Trịnh Xá.
Và nhiều năm sau đó, NNƯT Trịnh Đình Quý lại cùng với người dân Trịnh Xá tiếp tục hoàn thiện việc khôi phục trò, để đến hôm nay, trò Chiềng đã được diễn nhiều hơn.

NNƯT Trịnh Đình Quý truyền dạy cho các cháu nhỏ về trò Chiềng. Ảnh: Khánh Lộc
“Việc khôi phục trò tưởng đã khó, nhưng giữ trò sau khi khôi phục còn khó hơn. Khi trò bị gián đoạn quá lâu không được tổ chức, những thế hệ người dân đã từng được “sống” với trò còn lại quá ít, thế hệ ít tuổi hơn lại xa lạ với trò... Nhưng tôi tin rằng, người ta xa lạ bởi vì chưa quen, chưa hiểu nên chưa yêu, khi đã quen rồi, họ cũng sẽ yêu trò như cách ông cha xưa đã say mê diễn và giữ trò” - ông Trịnh Đình Quý tâm tình.
Xác định mọi thứ đều cần thời gian, trong mỗi sự kiện của làng, xã, khi có đông người, ông Trịnh Đình Quý lại mang trò Chiềng ra kể cho mọi người cùng nghe. “Khi còn có thể, tôi muốn lan tỏa tình yêu di sản quê hương đến mọi người dân. Đến giờ tôi đã có thể yên tâm rằng, trò Chiềng làng Trịnh Xá đã thực sự được “sống” lại” - ông Quý bộc bạch.
Giống như NNƯT Trịnh Đình Quý, Nghệ nhân Nhân dân Phạm Thị Tắng khi nhắc đến trò diễn Pôồn Pôông của người Mường, bày tỏ: “Năm nay bà 80 tuổi rồi, vẫn còn khỏe để diễn trò. Nhìn thấy các con, các cháu người Mường được bà truyền dạy say sưa diễn trò Pôồn Pôông trong các lễ hội, sự kiện của làng, của bản, bà vui vì văn hóa của người Mường đã được tiếp nối”.
Nhìn lại những di sản văn hóa của làng quê từng bị mai một và giờ đây, sau rất nhiều nỗ lực đã được khôi phục, thắp lửa trở lại, ta càng tin tưởng sức sống bền bỉ của văn hóa.
Nhưng, cũng theo chia sẻ của nhà nghiên cứu lịch sử, Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn: Mỗi người dân chính là chủ thể của văn hóa làng quê - không gian nơi họ sinh sống. Chừng nào, người ta còn háo hức trước mỗi kỳ hội làng, chừng đó văn hóa làng còn chưa mất đi. Nhưng cũng có một thực tế, ở đâu đó có những thực trạng, người dân xa lạ, thờ ơ với chính di sản văn hóa ông cha. Họ sẵn sàng đi đền to, phủ lớn khắp mọi nơi nhưng lại chưa từng ghé đình làng mình, không biết đình làng thờ ai?! Điều đó thực sự rất đáng buồn và lo ngại. Không ai ngoài chính người dân sống nơi làng quê mới chính là những người giữ gìn và trao truyền văn hóa làng tốt nhất.
Tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành văn hóa, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Văn hóa xây nên dáng hình của dân tộc, định hình hệ giá trị quốc gia, bồi đắp hệ giá trị gia đình, hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ mới: yêu nước, nhân ái, đoàn kết, trung thực, trách nhiệm, sáng tạo, kỷ cương, khát vọng”. Và để góp phần tạo nên “dáng hình” văn hóa của dân tộc, việc gìn giữ, bồi đắp, xây dựng văn hóa làng là yêu cầu quan trọng.