Giới thiệu bài văn chuông chùa Trăm Gian

Qua bài văn chuông cho biết Quảng Nghiêm tức chùa trên núi Tiên Lữ, chùa vì có tiếng chuông mà còn mãi đến nay. Quan Đô đốc Đông Lĩnh hầu và bà Nội tần Mậu Chiêu cùng với mọi người thập phương công đức để đúc quả chuông này.

Tác giả: Nguyễn Huy Khuyến & Vũ Ngọc Định

Tạp chí Nghiên cứu Phật học - Số tháng 09/2025

1. Vài nét về chùa Quảng Nghiêm

Chùa Quảng Nghiêm (廣嚴 寺) còn gọi là chùa Sở, chùa Tiên Lữ hay chùa Trăm Gian là ngôi chùa được mệnh danh đứng đầu “Tứ đại danh thắng” của Xứ Đoài, cùng chùa Trầm (huyện Chương Mỹ), chùa Thầy (huyện Quốc Oai) và chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất).

Đây là một ngôi chùa cổ, theo truyền thuyết được xây dựng năm Trinh Phù thứ 10 (1185), đời vua Cao Tông nhà Lý. Chùa tọa lạc trên đồi Mã cao khoảng 50m, thuộc dãy núi Tiên Lữ(1), thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

Gác chuông chùa Trăm Gian - Ảnh: Minh Khang

Gác chuông chùa Trăm Gian - Ảnh: Minh Khang

Tuy nhiên, trong giai đoạn này quy mô ngôi chùa như thế nào thì không còn tài liệu nào ghi chép lại. Chỉ biết đến thời Trần, theo miêu tả của văn bia Phật tổ di tích bi ký, đây là ngôi chùa “Một gian hai chái, khi ấy có vị trưởng lão trụ trì”.

Các tư liệu lịch sử cho biết, năm 1296, có vị hòa thượng tên là Bình An, đạo hiệu Đức Minh quê ở làng Bối Khê đến tu ở đây, trở thành vị Tổ khai sơn của chùa và được các triều đại phong kiến tôn xưng là Bồ Tát chân nhân (2).

Tương truyền, Tổ là người có nhiều phép lạ. Khi Tổ trở về núi Tiên Lữ xây dựng chùa, bấy giờ chùa mới gác xà, Tổ đi guốc gỗ bước lên xà thượng, đi qua lại nhanh như ngựa phi. Người thợ đều kinh ngạc ngoái nhìn cho là Tổ có phép thần thông, cùng nhau vái lạy. Trong khi xây dựng, dù có đến hơn 100 người thợ nhưng Tổ chỉ nấu một ang cơm nhỏ và nói với thợ rằng: Mọi người sửa soạn nong lớn ra mà đựng cơm, ta về quê lấy tương ăn. Mọi người cho là lời nói đùa, đều không tin. Nhưng quả nhiên Tổ từ chùa núi Tiên Lữ trở về đi qua hai xã Đàn Viên, Bảo Đà trong chớp mắt đã về đến chùa Bối Khê (Nay trên bệ đá trước chùa vẫn còn lưu lại dấu chân), mang hai chĩnh cà muối trở về núi, gọi các thợ đến ăn. Bỗng nhiên thấy trên bàn hết thảy đều hóa thành mâm cỗ chay, nhân công ăn mãi không hết.

Cuối thời Trần, vua vì chưa có người nối ngôi đến chùa núi cầu đảo, sinh được một vị hoàng tử, bèn ban sắc chỉ bao phong cho Tổ là: Đại thánh Khai sơn Nghĩa tồn Bình đẳng Hành thiện đại Bồ tát. Từ đó kính lễ hương hỏa càng thêm trọng hậu.

Căn cứ vào sự tích về đức Thánh Bối, ngài năm 15 tuổi (1296) vào chùa tu với vị trưởng lão trên núi Tiên Lữ. Sau khi trưởng lão viên tịch, Thánh Bối quay về trụ trì chùa. Lúc cuối đời Ngài cho xây dựng lại chùa, khi xây dựng xong chùa thì Ngài viên tịch, thọ 95 tuổi, tính ra lúc đó khoảng năm 1376.

Đến cuối đời nhuận Hồ, giặc Minh xâm lược, muốn trấn yểm các đền thiêng nước Nam ta, dựng cờ ở đỉnh núi chùa Ngọc Nhiếp, chùa Hỏa Tỉnh. Nghe nói đỉnh núi Tiên Lữ có vị tiên đã hóa thành tượng Phật, bèn đốt chùa, nhưng riêng tượng Tổ đốt 3 ngày vẫn không bị hư hỏng, không biết lý do vì sao. Thấy một người đến trước nói rằng: Muốn đốt được phải lấy bấc đèn bọc ở bên ngoài, tẩm dầu mà đốt mới có thể được. Người Ngô làm theo y như lời, bỗng nhiên trời đổ cơn mưa máu suốt 3 giờ, cờ giặc đổ ngã, mây mù suốt 3 ngày, giặc Minh bị bệnh dịch chết không kể xiết. Bèn đến xã Bảo Đà đắp đất làm gò để kiểm quân số thấy hao tổn quá nửa, mới bàng hoàng kinh sợ. Tự biết oai linh của thần khó xâm phạm, bấy giờ hối hận trong lòng. Lại thấy Tổ hiện ra nói rằng: Các ngươi muốn bảo toàn sinh mệnh thì phải làm lại tượng khác để hoàn trả, ta sẽ không trách phạt lỗi lầm cũ. Giặc minh lập tức sai người trở về nước làm một pho tượng giống như cũ đem đến chùa Tiên Lữ (Ngày nay pho tượng hãy còn), lại cho trùng tu chùa, bày tiệc tế lễ tại đền, từ đó dần dần được yên ổn.

Về sự kiện này, sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Chùa Quảng Nghiêm ở sơn phận xã Tiên Lữ, huyện Yên Sơn. Trước kia có người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, họ Nguyễn, tên là Bình Yên, trụ trì ở đây, có phép thần thông, biến ít thành nhiều ăn cũng vẫn đủ, lại có thể nhảy lên nóc nhà đi lại như thường. Người đời gọi là Đắc đạo chân nhân. Khi mất, mùi thơm ngào ngạt, người địa phương đặt thấy vào trong tháp để thờ. Vua Trần cho là cầu tự có linh ứng, sắc phong là Từ bi Bồ tát. Khi quân Minh xâm lược, thiêu hủy mất tháp, trời mưa 3 ngày nước đỏ như máu, quân Minh chết không biết bao nhiêu, phải rút về, người địa phương lại dựng tháp mới để thờ. Hằng năm đại hội vào những ngày 4, 5 và 6 tháng Giêng, người đến xem hội rất đông; bản triều phong tặng”(3).

Sau khi nhà Lê sơ khôi phục đất nước, nhân dân theo hình dáng cũ xây dựng lại ngôi chùa mới.

Trải qua thời gian đến đầu thời Lê Trung Hưng, trong văn bia Quảng Nghiêm tự bi ký tác giả Đỗ Tập Nghĩa viết rằng: “Ta từng trải thăm các chùa ở phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây nhưng chưa từng chùa nào rực rỡ bằng chùa trên núi cao huyện Yên Sơn. […] Tuy nhiên, vì trải qua ngày tháng đã lâu, công trình hư hỏng, nhưng hình bóng nền móng mọi người còn có thể nhìn thấy. Đến năm Đinh Sửu niên hiệu Hoằng Định (1601), chùa tu sửa lại một số công trình như: Thượng điện, Tiền đường, hành lang tả hữu chùa. Đến năm Kỷ Hợi (1603) tu tạo điện Đà Sơn và các tượng Phật”. Đến năm 1693 niên hiệu Chính Hòa, đời vua Lê Hy Tông cho xây dựng thêm gác chuông và đến năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) cho đúc chiếc khánh đồng dài 1,20m, cao 0,60m.

Cũng trong giai đoạn này chùa đã cho tạc pho tượng Tuyết Sơn cao 1,63m.

Đến thời Tây Sơn chùa tiếp tục được trùng tu, tôn tạo, xây dựng thêm các công trình mới, trong đó tiêu biểu nhất là đúc quả chuông Quảng Nghiêm cổ tự năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794) và xây dựng Ngự điện tháng 11 năm Giáp Thìn (1784) làm nơi đặt giá ngự đức thánh Bối ngự xem trò múa rối. Từ triều Nguyễn đến nay, chùa nhiều lần được trùng tu tôn tạo nhiều hạng mục.

Chùa Trăm Gian là di tích Phật giáo có lịch sử lâu đời, lưu giữ nhiều cho bao nhiều người giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc của Phật giáo Việt Nam. Do đó, năm 1962, chùa đã được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia.

2. Giới thiệu bài văn chuông

Hiện quả chuông vẫn được treo trên lầu chuông tại khuôn viên chùa Quảng Nghiêm. Theo các tài liệu cũ còn ghi lại, gác chuông được xây dựng vào Quý Dậu (1693), niên hiệu Chính Hòa đời vua Lê Hy Tông.

Chuông Quảng Nghiêm cổ tự niên đại Cảnh Thịnh nhị niên (1794) - Ảnh: TG

Chuông Quảng Nghiêm cổ tự niên đại Cảnh Thịnh nhị niên (1794) - Ảnh: TG

Trên tầng hai, treo một quả chuông cao 1,10m, đường kính 0,6m được đúc năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), trên chuông khắc bài minh văn Quảng Nghiêm cổ tự do Tiến sĩ Chế khoa khoa thi năm Đinh Mùi triều Lê, chức Hàn Lâm viện Hiệu thảo, người xã Vân Canh, huyện Từ Liêm là Trần Bá Lãm, tên hiệu Tố Am soạn.

Nguyên văn chữ Hán

廣嚴古寺 仙侶山廣嚴寺鍾銘并序

楞嚴精義以音聞為清凈真 教体鍾也者,其啟彂聞機之一 端歟。戛扒於此而感彂於彼, 使人従聞生悟,従悟生慧至矣 哉。法器之不可無鍾也。

仙侶廣嚴即山而寺,寺有鍾 其来尚矣。昨委劫灰寂然,泗 鼎然,鍾亡而閣在,則人心自 有 抑 彂之大修而復之。盖將有 待兹本社鄉老,貟色,善信等 寓目上方油興善念,相與彂愿 起功。

干時都督東嶺侯內嬪茂昭官 以及什方等之人,莫不同心樂 為施予。於是徵工????氏,借焔 祝融,呼吸間圓成洪鍾壹口。 朔晦,昕夕于以撞之,山腰, 池,畔繚喨鯨音,寺舍,僧房 悠揚鳳律。其為禪門之寶,當 何如哉。

慶成,徵文於余。惟夫! 鍾 者,種也。其世人種德,種 善之路乎目。今一定甫安,百 未举,惟此鑄鍾造福不難於 財自非人心向善之誠。曷況臻 此,余素樂與人為善,不以淺 拙辞,遂援筆而銘之,以垂永 久。

其銘:

大道無形

寓於有形

至教無聲

寓於有聲

斯鍾陶

范伊誰

經營名

公善士

集福而成

質坚体重

實大聲宏

如雉斯雊

如 雉斯

鴝 如鯨

斯鳴 下

敲塵濁

上透高清

聞機闡彂

迷覺夢腥

陰功陽报

天理常明

河沙福慶

鍾[~]勳

名 熾藏

耆殳 富

貴康寧

作善逢善

于鍾斯銘

安山縣,仙侶山廣嚴寺鑄造 洪鍾,所有興功會主,勾當, 會善及十方功德各社官員,大 翁,老婆,善男信女貫址,姓 名開列于后。

計: 一興功官以下:欽差統武勝[衛],大䧺校,都督東嶺侯鄧進 暕。

彰德縣良舍社以下:舊侍內 宫嬪茂昭鄧氏[玟],阮伯溢。

仙侶社以[下]:阮如蘭,阮 有造,阮廷称,阮廷例,阮進 秀。

[土][瓦] [社]:阮登操。芳泉 社[。。]村。

會主諸員以下:阮髙知。

仙侶社以下:阮廷旺,阮廷

宣,阮有加,阮登[侍],阮俊

彦,武知[暄],阮相佳,阮玉[ 堂],阮廷燦,阮功鉅。

芳泉社以下:阮廷旺,阮克 曉,阮功貴,阮廷勝。

義好社以下:土廷遂,黃廷 瑞,鄭春域。

美良縣,安場社[。。]村范 嘉暄。嘉定縣,東平社武氏 侶。

一勾當諸名以下:阮富度土 瓦社。杜廷賓仙侶社。

一會主諸員名以下:本縣知 縣義派子裴輝????。天本縣,百 穀社阮相登。

仙侶社以下:何得好,武 名陲,阮如豎,阮有審,杜 廷貴,高名迓,杜廷昆,武輝 晈,阮廷進,阮氏譴,阮惟 勤。

土瓦以下:阮廷演,阮擢 第, 阮有土。

本縣[武]分[奕]掌奇德義侯 阮廷德妻黎氏量古錢拾壹貫叁 陌。

扶籬縣,陶登社本縣文分知[ 参]謀諒信侯潘進暿古銭叁貫。 醴陽縣,玉鋪社四壁官員鄉 老上下等共古錢陸拾貫。

本社[延]番古銭弍貫。外村 隊弍古銭[壹]貫。內村會古銭陸 陌。外村會老古銭叁[陌]。青威 縣,貝溪社古錢五貫弍陌。貴 縣洪溪社古銭弍貫。

木[局]阮惟尊,仙侶社由張 木局作教堂。鉄[局]阮功力。

一什方功德以下:

青威縣,左青威社 古銭五 貫:吴為法,阮相旺。

仙侶社以下古銭五貫:武輝 曙。

古銭叁貫以下:宋輝奎,阮 弥,武玉琨,阮氏捷号海量。 彰德縣,良舍社号海琬。山[路] 社鄧惟財。永賴縣,古庵社黎 氏????。壽昌縣,[微文????]阮國 院。

仙侶社古錢貳貫以 下:杜 國体,阮玉桓,阮氏尹,宋氏 率。

古銭壹貫肆陌:阮氏[久]。 古銭壹貫陸陌:武名勝。

古錢壹貫貳陌以下 :武俊 榮,黎國莹。不濫社,下蘭 村。本縣張縣阮仲暹。

古錢一貫以下:富安村阮時 習。

仙侶社以下:阮[兼]勝,阮 國棟,阮有進,阮如立,阮 如蕙,阮相堪,宋伯定,阮仲 輝,何得陲,阮伯悌,阮名 樹,杜廷重,高名遂,阮廷[譽],杜惟錫,阮迪萬,宋惟心, 何得做,阮氏唵,阮氏珠,阮 氏席,武文儼,黎研。

青威縣,具教社以下:黎進 憑,阮廷秋。

慈廉縣,香崑社以下:阮克 勸,鄭惟醇。

彰德縣,祝里社阮 輝笋。 上覆縣,河回社鄭阮瓚。祝里 社,玉牢村阮武寧,阮有勝。 扶康社阮廷暄。裴舍坊杜廷 濯。義好社王春吉。

山路社以下:陳幸忠,阮伯 迪,阮文冗。 丹鳳縣得所社杜詩。覆縣高 含社高氏宜。地黃社宋文[圍]。

仙侶社[以下]古銭玖陌:阮 登進古錢陸陌,杜拜隨。

古錢陸陌以下:阮氏況,阮 如來。

古錢[。]陌以下:宋有本, 武名俊,杜惟幸,武克寬, 阮俊仕,杜惟述,阮柱堅, 高名連,高名述,高名遠, 阮有遵,杜國珍,宋名基, 宋伯淵,宋伯慘,阮如雲,阮 廷揚,杜廷燦, 阮廷春,阮 廷賔,宋惟炳,阮如實,阮 文役,楊廷震,武玉坎,阮氏 堅,阮氏破,阮氏張,阮氏 樽。

青威縣純攬社,阮廷牧。 土瓦社以下:阮進資,阮文 就,刘名譽。

慈廉縣仁美社阮廷清。 裴舍坊以下:阮廷式,阮貫 㺶。

地黃社儼廷壤。 美良縣,清泥社以下:裴得 財,阮如海。

不濫社,下蘭村阮登第,永 賴縣,東庵社阮氏另。山路社 杜惟況。

仙侶社古錢五陌以 下:宋 伯暹,阮有敦,阮貴恒,宋 伯海,杜廷尊,阮世美,阮文 胡,杜文德,杜文命,阮俊 彥。上覆縣,文印社阮功冠。

扶康社以下:阮惟能,裴廷 義。溪灘社黎文善。丹鳳縣, 香榜社杜惟迓。

仙侶社古錢四陌以 下:阮 文田,宋輝作,阮氏㜥,阮廷 滋。

土瓦社阮廷琪。裴舍坊,阮 有琰。

美良縣,高部社以下:黃有 名,陳廷希,杜文承。

安健社本府僧仕古錢五貫。

有珖社,挺秀村裴 有致, 裴有澤,裴有忠,裴有玶仝族 等古錢叁貫肆陌。本縣山路社 會老古錢叁貫。伊社市壁古叁 貫。伊社屠寧坊古錢叁貫。安 內社古錢叁貫。花板社古錢叁 貳貫。義好社,官箴村古錢叁 壹貫。伊社弹彈村古錢陸貫。

溪滩社古錢叁壹貫。龍珠社, 上村古錢叁壹貫。奉天村古 錢叁壹貫。晴嵐社,度撞村古 錢壹貫。安健社,隴位村古 錢壹貫。康健社,同郎村古錢 陸陌。花垓社古錢壹貫。美良 縣,安塲社古錢貳貫。伊社同 貯村古錢壹貫。伊村老婆古錢 捌陌。中部社古錢壹貫。伊社 與高部二社老婆古錢陸陌。伊 二社黎仲曙,阮廷點,阮伯 征,阮廷專,黎淑冕,鄭辉暎 等古錢叁貫。彰德縣,大安塲 社古錢叁貫。祝里社古錢壹 貫。伊社老婆古錢六陌。青 威縣,朝曲社老婆信女古錢貳 貫叁陌。慈廉縣,苗芽社古錢 壹貫陸陌。香蘭社老婆古錢陸 陌。丹鳳縣,前例社古錢久 陌。香榜社,石村諸仕古錢陸 陌。扶康社老婆[。。。]。富 華,義好二社老婆古錢九陌三 十文。本社另兵何得賞,阮文 闢,武克珠,杜文吹,何得位 等古錢壹貫。

仙侶社古錢叁陌以 下:武 輝銀,阮廷焞,阮文造,宋 伯清,高名享,阮進榮, 何 得秀,武名陞,阮有幸,武 名仕,宋輝[~],杜廷僉,阮 至境,杜世士,阮致美,阮文 貌,阮有永,阮廷慶,阮廷 鏗,阮氏積,武氏領,武氏 洡,阮氏心,宋氏滿,阮氏 兩,杜文登。

土瓦社以下:阮氏????,王文 丙,阮功智。

地黃社以下:杜文 瑟,王 國柱。東岸縣會阜社刘名願。 慈廉縣,仁美社阮貴壽。慈廉 縣,天姥社黎功忍,陳阮榆。

伊縣青泥社杜有坦。 美好社以下: 杜廷述,阮俊

爽。龍珠社阮廷鏗。青威縣,

純攬社黎俊忠。山路社阮快。 臘合社刘公遵。地黃社阮有 並。

景盛弍年歲次甲寅孟春吉 旦。

舊黎朝丁未制科,翰林院校 討,慈廉,雲耕陳伯覽,素庵 撰。

安山縣舊長吏阮名聞奉寫。

Dịch nghĩa:

Chùa cổ Quảng Nghiêm

Bài minh và tựa chuông chùa Quảng Nghiêm núi Tiên Lữ.Cái cốt nghĩa của kinh Lăng Nghiêm là lấy việc nghe tiếng chuông để thanh tịnh giáo pháp chân thực, là một đầu mối để khởi phát sự nghe vậy. [Tiếng chuông] vang lên ở chỗ này thì sẽ khởi phát lòng cảm ứng ở nơi khác, khiến người ta nghe tiếng chuông mà sinh lòng giác ngộ, từ sự giác ngộ mà sinh tuệ trí vậy. Vậy chuông là pháp khí không thể thiếu của nhà Phật vậy.

Quảng Nghiêm tức chùa trên núi Tiên Lữ, chùa vì có tiếng chuông mà còn mãi đến nay. Ngày trước bởi gặp kiếp nạn khói lửa mà lặng yên, chìm đắm, chuông mất mà gác chuông còn, thì lòng người tự sẽ có sự phấn phát tu sửa mà khôi phục lại. Bởi vậy nay các vị hương lão, viên chức, sắc mục cùng các thiện tín trong xã đều hướng mắt về chùa(4) mà hưng khởi lòng thiện niệm, cùng nhau phát nguyện khởi công.

Khi đó lại có quan Đô đốc Đông Lĩnh hầu và bà Nội tần Mậu Chiêu cùng với mọi người thập phương, không ai là không đồng lòng vui vẻ ban phát. Bấy giờ mời thợ tài giỏi, mượn ngọn lửa thần Chúc Dung(5), chỉ trong khoảng hơi thở đã hoàn thành việc đúc một quả hồng chung. Các ngày sóc hối, sớm chiều đều vang lên tiếng chuông, bên sườn núi, bờ hồ, bờ ruộng đều vọng tiếng kình(6), tự xá, tăng phòng du dương điệu phượng(7). Thật là vật báu nhà thiền, xứng đáng là vậy thay!

Ngày khánh thành, mời ta viết bài văn chuông. Nghĩ rằng! Chuông, là gieo trồng vậy. Là con đường căn bản để người đời trồng đức, trồng thiện. Nay tất cả vừa mới yên ổn, muôn việc chưa được tốt, duy việc đúc chuông này tạo phúc là không khó, bởi tiền tài chẳng so được với sự thành ý hướng thiện của lòng người. Huống chi đối với việc này, cũng là ta cùng vui với người làm việc thiện, nên chẳng quản văn từ thô vụng, bèn nhấc bút viết bài minh, để truyền lâu dài mãi mãi.

Bài minh rằng:

Đạo lớn không hình

Ngụ trong hữu hình

Giáo lớn vô thanh

Ngụ trong hữu thanh

Chuông ấy khuôn ấy

Hỏi ai chế thành

Quan lớn người lành

Góp phúc mà thành

Chất rắn thân nặng

To lớn vang vọng

Như tiếng trĩ kêu

Như tiếng sáo hót

Như tiếng kình vang

Dưới khua bụi trần

Trên thấu cao xanh

Nghe chuông đạo khởi

Mê mộng tỉnh nhanh

Âm công dương báo

Đạo trời rành rành

Điều phúc muôn vàn

Chung (đỉnh(8)) thơm danh

Chứa kinh đong kệ(9)

Phú quý khang ninh

Làm thiện gặp lành

Chuông này khắc minh.

Chùa Quảng Nghiêm núi Tiên Lữ, huyện Yên Sơn đúc hồng chung, có các vị Hội chủ hưng, Câu đương, Hội thiện cùng với thập phương công đức và quan viên, lão ông, lão bà, thiện nam tín nữ các xã, đều được ghi rõ địa chỉ quê quán, họ tên ở dưới đây.

Gồm:

Dưới đây là quan hưng công: Khâm sai Thống vũ Thắng vệ, Đại Hùng hiệu, Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản.

Dưới đây là những người xã Lương Xá, huyện Chương Đức: Nguyên Thị nội Cung tần sắc phong Mậu Chiêu là Đặng Thị Mân, Nguyễn Bá Dật.

Dưới đây là người xã Tiên Lữ: Nguyễn Như Lan, Nguyễn Hữu Tạo, Nguyễn Đình Xứng, Nguyễn Đình Lệ, Nguyễn Tiến Tú.

Nguyễn Đăng Tháo người xã Thổ Ngõa. […] người thôn [..] xã Phương Tuyền.

Dưới đây là vị Hội chủ: Nguyễn Cao Tri.

Dưới đây là xã Tiên Lữ: Nguyễn Đình Vượng, Nguyễn Đình Tuyên, Nguyễn Hữu Gia, Nguyễn Đăng Thị, Nguyễn Tuấn Ngạn, Vũ Tri Huyên, Nguyễn Tương Giai, Nguyễn Ngọc Đường, Nguyễn Đình Xán, Nguyễn Công Cự.

Dưới đây là xã Phương Tuyền: Nguyễn Đình Vượng, Nguyễn Khắc Hiểu, Nguyễn Công Quý, Nguyễn Đình Thắng.

Dưới đây là xã Nghĩa Hảo: Thổ Đình Toại, Hoàng Đình Thụy, Trịnh Xuân Vực.

Phạm Gia Huyên người thôn [..], xã Yên Trường, huyện Mỹ Lương. Vũ Thị Lữ người xã Đông Bình, huyện Gia Định.

Dưới đây là tên họ các vị Câu đương: Nguyễn Phú Độ người xã Thổ Ngõa, Đỗ Đình Tân người xã Tiên Lữ.

Dưới đây là tên các vị Hội chủ:

Tri huyện bản huyện là Nghĩa Phái tử Bùi Huy Trí.

Nguyễn Tương Đăng người xã Bách Cốc, huyện Thiên Bản.

Dưới đây là người xã Tiên Lữ: Hà Đắc Hảo, Vũ Danh Thùy, Nguyễn Như Thụ, Nguyễn Hữu Thẩm, Đỗ Đình Quý, Cao Danh Nhạ, Đỗ Đình Côn, Vũ Huy Kiểu, Nguyễn Đình Tiến, Nguyễn Thị Khiển, Nguyễn Duy Cần.

Dưới đây là người xã Thổ Ngõa: Nguyễn Đình Diễn, Nguyễn Trạc Đệ, Nguyễn Hữu Thổ.

Bản huyện Vũ Phân dịch Chưởng cơ Đức Nghĩa hầu Nguyễn Đình Đức và vợ Lê Thị Lượng cúng 11 quan 3 mạch cổ tiền.

Bản huyện Văn Phân tri Tham mưu Lượng Tín hầu Phan Tiến Hi người xã Đào Đăng, huyện Phù Ly cúng 3 quan cổ tiền.

Dân chúng, quan viên, hương lão trên dưới xã Ngọc Phô, huyện Lễ Dương cúng tổng cộng 60 quan cổ tiền.

Các lão bà trong xã gồm: Đỗ Thị [Nhiễu], Tống Thị [Diễn],Nguyễn Thị [Quang], Nguyễn Thị [Sánh], Nguyễn Thị [Tỉnh], Nguyễn Thị Úm, Nguyễn Thị Châu quyên góp thập phương được 16 quan cổ tiền.

Các lão bà ở xã Phương Tuyền gồm: Nguyễn Thị [Chỉnh], Nguyễn Thị [Mặc], Lê Thị [Ngõ], [Lê] Thị Chấp, Nguyễn Thị Vị, Nguyễn Thị Mỵ, Nguyễn Thị Ích, Lê Thị Thái quyên góp thập phương được 10 quan cổ tiền.

Chức Diên phiên bản xã cúng 2 quan cổ tiền. [Chức] đội Nhị thôn Ngoại cúng 1 quan cổ tiền. Hội [Lão] thôn Nội cúng 6 mạch cổ tiền. Hội lão thôn Ngoại cúng

3 mạch cổ tiền. Xã Bối Khê, huyện Thanh Oai cúng 5 quan 2 mạch cổ tiền. Xã Hồng Khê thuộc quý huyện(10) cúng 2 quan cổ tiền.

Quan ở Mộc cục là Nguyễn Duy Tôn người xã Tiên Lữ (do mở giáo đường ở Mộc cục). Quan ở Thiết cục là Nguyễn Công Lực người xã Phương Tuyền.

Dưới đây là các vị thập phương công đức:

Ngô Vi Pháp, Nguyễn Tương Vượng quê xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai cúng 5 quan cổ tiền.

Vũ Huy Thự người xã Tiên Lữ xã cúng 5 quán cổ tiền.

Dưới đây là người cúng 3 quan cổ tiền:

Tống Huy Khuê, Nguyễn Di, Vũ Ngọc Côn, Nguyễn Thị Tiệp tên hiệu Hải Lượng người xã Lương Xá, huyện Chương Đức. Tên hiệu Hải Uyển người xã Sơn Lộ. Đặng Duy Tài người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Lê Thị Ba người xóm Vi Văn, huyện Thọ Xương. Nguyễn Quốc Viện.

Dưới đây là người xã Tiên Lữ cúng 2 quan cổ tiền: Đỗ Quốc Thể, Nguyễn Ngọc Hoàn, Nguyễn Thị Doãn, Tống Thị Suất.

Nguyễn Thị Cửu cúng 1 quan 4 mạch cổ tiền.

Vũ Danh Thắng cúng 1 quan 6 mạch cổ tiền

Dưới đây là người cúng 1 quan 2 mạch cổ tiền: Vũ Tuấn Vinh, Lê Quốc Oánh người thôn Hạ Lan xã Bất Lạm. Trương huyện trong huyện Nguyễn Trọng Xiêm.

Nguyễn Thời Tập người thôn Phú An cúng 1 quan cổ tiền.

Dưới đây là người người xã Tiên Lữ: Nguyễn Kiêm Thắng, Nguyễn Quốc Đống Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Như Lập, Nguyễn Như Huệ, Nguyễn Tương Kham, Tống Bá Định, Nguyễn Trọng Huy, Hà Đắc Thùy, Nguyễn Bá Đễ, Nguyễn Danh Thụ, Đỗ Đình Trọng, Cao Danh Toại, Nguyễn Đình Dự, Đỗ Duy Tích, Nguyễn Địch Vạn, Tống Duy Tâm, Hà Đắc Tố, Nguyễn Thị Úm, Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Thị Tịch, Vũ Văn Nghiễm, Lê Nghiên.

Dưới đây là những người xã Cụ Giáo, huyện Thanh Oai: Lê Tiến Bằng, Nguyễn Đình Thu.

Dưới đây là những người xã Hương Côn, huyện Từ Liêm: Nguyễn Khắc Khuyến, Trịnh Duy Thuần.

Nguyễn Huy Duẩn người xã Chúc Lý, huyện Chương Đức. Trịnh Nguyễn Toản người xã Hà Hồi, huyện Thượng Phúc. Nguyễn Vũ Ninh, Nguyễn Hữu Thắng người thôn Ngọc Lao, xã Chúc Lý. Nguyễn Đình Huyên người xã Phù Khang. Đỗ Đình Trạc người phường Bùi Xá. Vương Xuân Cát người xã Nghĩa Hảo.

Dưới đây là người xã Sơn Lộ: Trần Hạnh Trung, Nguyễn Bá Địch, Nguyễn Văn Nhũng.

Đỗ Thi người xã Đắc Sở, huyện Đan Phượng. Cao Thị Nghi người xã Cao Hàm, huyện Thượng Phúc. Tống Văn [Vi] người xã Địa Hoàng.

Dưới đây là người xã Tiên Lữ: Nguyễn Đăng Tiến cúng 9 mạch cổ tiền, Đỗ Bái Tùy cúng 6 mạch cổ tiền.

Dưới đây là những người cúng 6 mạch cổ tiền: Nguyễn Thị Huống, Nguyễn Như Lai

Dưới đây là những người cúng [.] mạch cổ tiền:

Tống Hữu Bản, Vũ Danh Tuấn, Đỗ Duy Hạnh, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Tuấn Sĩ, Đỗ Duy Thuật, Nguyễn Trụ Kiên, Cao Danh Liên, Cao Danh Thuật, Cao Danh Viễn, Nguyễn Hữu Tuân, Đỗ Quốc Trân, Tống Danh Cơ, Tống Bá Uyên, Tống Bá Thảm, Nguyễn Như Vân, Nguyễn Đình Dương, Đỗ Đình Xán, Nguyễn Đình Xuân, Nguyễn Đình Tân, Tống Duy Bỉnh, Nguyễn Như Thật, Nguyễn Văn Dịch, Dương Đình Chấn, Vũ Ngọc Khảm, Nguyễn Thị Kiên, Nguyễn Thị Phá, Nguyễn Thị Trương, Nguyễn Thị Tôn.

Nguyễn Đình Mục người xã Thuần Lãm, huyện Thanh Oai.

Dưới đây là những người xã Thổ Ngõa: Nguyễn Tiến Tư, Nguyễn Văn Tựu, Lưu Danh Dự.

Nguyễn Đình Thanh người xã Nhân Mỹ, huyện Từ Liêm.

Dưới đây là những người phường Bùi Xá: Nguyễn Đình Thức, Nguyễn Quán Đẩu.

Nghiễm Đình Nhưỡng người xã Địa Hoàng.

Dưới đây là những người xã Thanh Nê, huyện Mỹ Lương: Bùi Đắc Tài, Nguyễn Như Hải.

Nguyễn Đăng Đệ người thôn Hạ Lan, xã Bất Lam. Nguyễn Thị Lánh người xã Đông Am, huyện Vĩnh Lại. Đỗ Duy Huống người xã Sơn Lộ.

Dưới đây là những người xã Tiên Lữ cúng 5 mạch cổ tiền: Tống Bá Xiêm, Nguyễn Hữu Đôn, Nguyễn Quý Hằng, Tống Bá Hải, Đỗ Đình Tôn, Nguyễn Thế Mỹ, Nguyễn Văn Hồ, Đỗ Văn Đức, Đỗ Văn Mệnh, Nguyễn Tuấn Ngạn Thượng Phúc huyện Văn Ấn xã, Nguyễn Công Quan.

Dưới đây là người ở xã Phù Khang: Nguyễn Duy Năng, Bùi Đình Nghĩa.

Lê Văn Thiện người xã Khê Than. Đỗ Duy Nhạ người xã Hương Bảng, huyện Đan Phượng.

Dưới đây là người xã Tiên Lữ cúng 4 mạch cổ tiền: Nguyễn Văn Điền, Tống Huy Tác, Nguyễn Thị Mại, Nguyễn Đình Tư.

Nguyễn Đình Kỳ, Bùi Xá Phường, Nguyễn Hữu Diễm người xã Thổ Ngõa.

Dưới đây là người xã Cao Bộ, huyện Mỹ Lương: Hoàng Hữu Danh, Trần Đình Hi, Đỗ Văn Thừa.

Tăng sĩ bản phủ người xã An Kiện cúng 5 quan cổ tiền. Bùi Hữu Trí người thôn Đĩnh Tú, xã Hữu Quang. Bùi Hữu Trạch, Bùi Hữu Trung, Bùi Hữu Bình đồng tộc cúng 30 quan 4 mạch cổ tiền. Hội lão xã Sơn Lộ trong huyện cúng 3 quan cổ tiền. Chợ Bích trong xã cúng 3 quan cổ tiền. Phường Đồ Ninh trong xã cúng 3 quan cổ tiền. Xã An Nội cúng 3 quan cổ tiền. Xã Hoa Bản cúng 3 quan cổ tiền.

Thôn Quan Châm xã Nghĩa Hảo cúng 3 quan cổ tiền. Thôn Đan Đàn trong xã cúng 6 quan cổ tiền. Xã Khê Than cúng 3 quan cổ tiền. Thôn Thượng, xã Long Châu cúng 3 quan 1 cổ tiền. Thôn Phụng Thiên cúng 3 quan 1 cổ tiền. Thôn Độ Chàng xã Tình Lam cúng 3 quan 1 cổ tiền. Thôn Lũng Vị, xã An Kiện cúng 1 quan cổ tiền. Thôn Đồng Lang, xã Khang Kiện cúng 6 mạch cổ tiền. Xã Hoa Cai cúng 1 quan cổ tiền. Xã Yên Trường, huyện Mỹ Lương cúng 2 quan cổ tiền. Thôn Đồng Trữ trong xã cúng 1 quan cổ tiền. Các lão bà trong thôn cúng 8 mạch cổ tiền. Xã Trung Bộ cúng 1 quan cổ tiền. Lão bà ở bản xã và xã Cao Bộ cúng 6 mạch cổ tiền. Các vị Lê Trọng Thự, Nguyễn Đình Điểm, Nguyễn Bá Chinh, Nguyễn Đình Chuyên, Lê Thục Miện, Trịnh Huy Ánh ở xã Y Nhị cúng 3 quan cổ tiền. Xã Đại An Tràng huyện Chương Đức cúng 1 quan cổ tiền. Xã Chúc Lý cúng 1 quan cổ tiền. Lão bà trong xã cúng 6 mạch cổ tiền. Lão bà tín nữ xã Triều Khúc, huyện Thanh Oai cúng 2 quan 3 mạch cổ tiền. Xã Miêu Nha, huyện Từ Liêm cúng 1 quan 6 mạch cổ tiền. Lão bà xã Hương Lan cúng 6 mạch cổ tiền. Xã Tiền Lệ, huyện Đan Phượng cúng 9 mạch cổ tiền. Các vị sĩ ở thôn Thạch, xã Hương Bảng cúng 6 mạch cổ tiền. Lão bà xã Phù Khang xã cúng [….]. Lão bà ở hai xã Phú Hoa và Nghĩa Hảo cúng 9 mạch 30 văn cổ tiền. Người trong xã gồm Lánh binh Hà Đắc Thưởng, Nguyễn Văn Tịch, Vũ Khắc Châu, Đỗ Văn Xuy, Nguyễn Đắc Vị cúng 1 quan cổ tiền.

Dưới đây là những người xã Tiên Lữ cúng 3 mạch cổ tiền:

Vũ Huy Ngân, Nguyễn Đình Truân, Nguyễn Văn Tạo, Tống Bá Thanh, Cao Danh Hưởng, Nguyễn Tiến Vinh, Hà Đắc Tú, Vũ Danh Thăng, Nguyễn Hữu Hạnh, Vũ Danh Sĩ, Tống Huy [.], Đỗ Đình Thiêm, Nguyễn Chí Cảnh, Đỗ Thế Sĩ, Nguyễn Trí Mỹ, Nguyễn Văn Mạo, Nguyễn Hữu Vĩnh, Nguyễn Đình Khánh, Nguyễn Đình Khanh, Nguyễn Thị Tích, Vũ Thị Lãnh, Vũ Thị Lỗi, Nguyễn Thị Tâm, Tống Thị Mãn, Nguyễn Thị Lưỡng, Đỗ Văn Đăng.

Dưới đây là những người xã Thổ Ngõa: Nguyễn Thị Đó, Vương Văn Bính, Nguyễn Công Trí.

Dưới đây là những người xã Địa Hoàng: Đỗ Văn Sắt, Vương Quốc Trụ.

Lưu Danh Nguyện người xã Hội Phụ, huyên Đông Ngạn. Nguyễn Quý Thọ người xã Nhân Mỹ, huyện Từ Liêm. Lê Công Nhẫn người xã Thiên Lão, huyện Nhân Mỹ. Đỗ Hữu Thản người xã Thanh Nê trong huyện.

Dưới đây là những người xã Mỹ Hảo: Đỗ Đình Thuật, Nguyễn Tuấn Sảng.

Nguyễn Đình Khanh người xã Long Châu.

Lê Tuấn Trung người xã Thuần Lãm, huyện Thanh Oai.

Nguyễn Khoái Lạp người xã Sơn Lộ.

Lưu Công Tuân người xã Hợp.

Nguyễn Hữu Tịnh người xã Địa Hoàng.

Ngày tốt tháng mạnh xuân (tháng 1) năm Giáp Dần niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794).

Cựu Chế khoa khoa thi năm Đinh Mùi triều Lê, chức Hàn Lâm viện Hiệu thảo, người xã Vân Canh, huyện Từ Liêm là Trần Bá Lãm, tên hiệu Tố Am soạn.

Cựu Trưởng lại người huyện Yên Sơn là Nguyễn Danh Văn vâng viết chữ.

Qua bài văn chuông cho biết Quảng Nghiêm tức chùa trên núi Tiên Lữ, chùa vì có tiếng chuông mà còn mãi đến nay. Quan Đô đốc Đông Lĩnh hầu và bà Nội tần Mậu Chiêu cùng với mọi người thập phương công đức để đúc quả chuông này.

Ngoài ra còn có sự hưng công đóng góp không nhỏ của nhân dân trên địa bàn xã Tiên Lữ Cao Bộ, Thổ Ngõa, Địa Hoàng, Mỹ Hảo. Tên tuổi của họ còn được ghi dấu trên chuông cũng góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau hiểu và làm nhiều việc thiện, có ích cho xã hội.

Tác giả: Nguyễn Huy Khuyến & Vũ Ngọc Định

Tạp chí Nghiên cứu Phật học - Số tháng 09/2025

***

Chú thích:

(1) Sách Đại Nam nhất thống chí, Q.4, mục Tỉnh Sơn Tây ghi: “Núi Tiên Lữ ở cách huyện Yên Sơn 12 dặm về phía đông nam, tục gọi núi Mã, dưới chân núi có ao thả sen, lại có chùa Quảng Nghiêm”.

(2) Sách Lịch triều hiến chương loại chí, Q. Địa dư chí, tr.195 ghi: “Núi Tiên Lữ ở xã Tiên Lữ, huyện Yên Sơn; sầm uất, âm u, trong thờ vị Bồ Tát chân nhân”.

(3) Q.4, mục Tỉnh Sơn Tây, tr.243, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

(4) Nguyên dịch từ chữ 上方 Thượng phương: nghĩa là chùa Phật, chùa núi. Còn là tiếng để gọi vị trụ trì, vì trong chùa trụ trì ở

ngôi cao nhất.

(5) 祝融 Chúc Dung: Là ông vua trong truyền thuyết dân gian Trung quốc. Vì vua này đem lửa cho mọi người, nên gọi là Xích đế.

Có thuyết bảo là Hỏa quan đời Đế Khốc, người đời sau tôn làm thần lửa.

(6) Trên quai chuông người ta thường đúc con Bồ lao giống như con rồng. Cái chày đánh chuông bằng gỗ chạm con cá kình. Con Bồ lao ở dưới nước và cũng ở trên khô, Bồ lao thấy cá kình thì nó sợ nó la lên nhảy lên bờ. Cá kình muốn ăn Bồ lao nhưng không lên bờ được. Hai loài này chống đối nhau. Lấy ý nghĩa là này là muốn cho tiếng chuông kêu to, vang xa để tỉnh thức mọi người và cũng để thức tỉnh những cô hồn, âm linh, nghe chuông mà mau niệm Phật để thoát kiếp luân hồi.

(7) Trong Phật giáo, chim phượng biểu thị cho điềm lành và sự hòa hợp.

(8) Nguyên bản chữ bị mờ, chúng tôi tạm hiểu nghĩa là chữ “Đỉnh”. Chung đỉnh hay đỉnh chung chỉ nhà giàu sang phú quý.

(9) Nguyên tạm dịch từ câu “熾藏耆殳 Sí tạng kỳ thù.

(10) Quý huyện: từ biểu thị tôn xưng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1]. Đại Nam nhất thống chí. Bản dịch của Viện Sử học. NXB Thuận Hóa tái bản lần thứ hai năm 2006.

[2]. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí.Bản dịch của Viện Sử học. NXB Giáo Dục 2007.

[3]. PGS.TS. Phạm Thị Thùy Vinh, Chủ trì tuyển trọn, giới thiệu (2010), Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm - Tủ sách Tư liệu văn hiến Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội.

Nguồn Tạp chí Phật học: https://tapchinghiencuuphathoc.vn/gioi-thieu-bai-van-chuong-chua-tram-gian.html
Zalo