Gió phía rừng
Gió rừng miền Trung thổi ời ời suốt cả mùa mưa. Sáng nào cũng vậy, gió lùa qua dãy nhà cấp bốn của trạm phòng cháy chữa cháy chúng tôi, lùa vào mùi khói, mùi ẩm và mùi thuốc bắc từ phòng y tế.
Mùi ấy lạ như mùi đất, mùi người, mùi của sự sống còn dai dẳng kiên cường trong khói lửa.
Ngày đầu về đơn vị, tôi còn trẻ, tóc xanh, mắt háo hức nhìn mọi vụ cháy như trận chiến oai hùng. Trong đầu tôi chỉ có tiếng còi hụ, lửa, khói và lòng kiêu hãnh của một người lính mới ra trường.
Khi ấy, tôi gặp ông, y tá Tĩnh. Ông gầy lắm, người nhỏ thó, áo blu trắng đã sờn, tay lúc nào cũng cầm một cuốn sổ. Mắt ông lấp lánh và hiền hậu, thứ ánh sáng của người hiểu nhiều mà chẳng muốn nói nhiều. Chúng tôi thường gọi ông là “ông y tá”.

Minh họa: Hà Huy Chương
Ở cái trạm nhỏ bé ấy, ông giống như một nốt trầm. Ban ngày ông giã thuốc, ban đêm thì miệt mài sắc thuốc. Cái mùi quế, mùi cam thảo, mùi lá ngải quanh phòng ông làm việc ai đi ngang cũng thấy yên. Giữa đám trai trẻ chúng tôi, ông như một thứ bình yên cũ kỹ.
Tôi hỏi đùa:
- Ông Tĩnh à, thuốc đông y có chữa được mệt mỏi tinh thần không?
Ông cười, giọng nhỏ:
- Có. Bằng bát canh rau tập tàng và giấc ngủ ngon. Nhưng thôi, để mai tôi cho ít tâm sen, pha mà uống.
Câu nói ấy, nghe tưởng nhẹ, mà tôi cứ nhớ mãi.
Trong đời lính chữa cháy, cái mệt không chỉ ở sức, mà ở tâm nữa. Có hôm về trại, tôi ngồi nhìn ông Tĩnh lụi cụi châm nước vào ấm, bỗng thấy mắt ông xa xăm như nhìn về một nơi khác, chắc là quê hương, chắc là những người ông từng cứu chữa.
Ông chữa cho cánh lính trẻ chúng tôi đủ thứ bệnh: Bỏng, bong gân, cảm, viêm phổi... Tôi từng bị bong gân khi tập. Ông không cho đi viện. Ông bảo:
- Để tôi lo.
Rồi lấy thứ rượu ngâm trông sẫm màu, mùi cay, chườm lên cổ chân tôi. Tay ông run mà chắc chắn.
- Cậu trẻ, đừng coi thường mấy vết thương nhỏ. Thân thể lính mà yếu, không cứu được ai.
Ba ngày sau, tôi đi lại được. Ông chỉ cười, không nói gì thêm.
Tôi bắt đầu tin rằng có những con người sinh ra để chữa lành, không bằng thuốc mà bằng sự cẩn trọng và tình thương luôn được dâng đầy đặn.
*
Trong đơn vị có cậu Hòa, lính mới quê vùng biển Quảng Năng. Da cậu ta mỏng, dính nắng rừng là nổi rộp. Vết loang đỏ, nứt nẻ, máu luôn thấm ra áo. Bác sĩ bệnh viện tỉnh ngần ngừ. Ông Tĩnh lặng lẽ nói:
- Để tôi xem.
Ông giở từng trang sổ ghi chép cũ, tra cứu, sưu tầm, đối chiếu..., rồi ông Tĩnh ngồi tới tận khuya. Ánh đèn trong phòng y tế vàng như mật ong, bóng ông nghiêng nghiêng trên tường, run rẩy...
Vài hôm sau, ông bắt đầu sắc thuốc: Ké đầu ngựa, khổ sâm, thổ phục linh, hoàng liên... Nước thuốc chắt ra đắng ngoét. Hòa uống mặt nhăn nhó.
Ông chỉ bảo:
- Đắng miệng, sẽ ngọt ở đời. Uống đi.
Nửa tháng sau, Hòa khỏi. Cậu chạy đến ôm ông, khóc.
Ông chỉ xua tay:
- Tôi có làm gì đâu. Cây thuốc tốt, chứ người đâu có giỏi.
Tin ấy lan khắp trại. Từ đó, ai cũng tin tưởng ông.
Nhưng tôi hiểu một điều: Không phải thuốc đâu mà là lòng ông chữa người. Tấm lòng của kẻ coi sinh mệnh người khác quan trọng hơn cả giấc ngủ của mình.
*
Có lần đi chữa cháy về, ai cũng ho. Ông không hoảng, chỉ lẳng lặng đun nước lá húng chanh, gừng, tía tô.
- Xông đi.
Mùi thuốc cay nồng, đuổi khói khỏi ngực.
Rồi ông pha nước cam thảo, mạch môn.
- Cái phổi của lính chữa cháy quý lắm. Đừng để khói độc nó ăn. Tây y không chữa được đâu.
Nhiều đêm tôi trực cùng ông. Ngoài trời gió Lào khô và nóng. Trong phòng, ông lúi húi đong thuốc, cân lá cân rễ. Tôi hỏi:
- Ông học ở đâu mà biết nhiều thứ thế?
Ông cười:
- Ngày trẻ theo ông lang làng, đi rừng hái lá. Mê mẩn từ đó. Khi vào Ngành, thấy đồng đội đau, lại càng ham.
Giọng ông bình thản, không tự hào. Nhưng tôi thấy ở đó niềm tin giản dị: Sống để làm gì, nếu không để giúp ai đó bớt đau.
Ông không có gia đình. Khi hỏi, ông nói:
- Tôi có rồi. Cả đơn vị này đấy thôi.
*
Năm ấy nhiều bão lớn, lũ tràn. Đơn vị đi cứu dân, ai cũng bị thương tích. Khi về, ông đã chuẩn bị sẵn nồi thuốc, chăn khô, đèn sáng. Ông vừa đắp thuốc, vừa dỗ người:
- Cứu dân là việc của các cậu. Giữ sức cho các cậu là việc của tôi.
Câu nói đơn giản mà nghe rưng rưng.
Mái tóc ông bạc dần, tay run, mắt mờ. Nhưng vẫn kiên trì sắc thuốc, ghi chép. Ông bảo:
- Cây thuốc cũng như người lính, phải tận tụy đến cuối cùng.
Rồi một ngày, ông nghỉ hưu.
Hội trường chật người đến chia tay với ông. Ông Tĩnh mặc bộ quân phục, ngực gắn huy hiệu, cười hiền:
- Tôi chỉ là y tá, không làm gì lớn cả. Nhưng được sống với các cậu, thấy đủ lắm rồi.
Không ai nói gì. Mắt người nào cũng đỏ.
*
Bây giờ ông ở một căn nhà nhỏ ngoài thành phố. Trồng vài khóm thuốc, ngải cứu, húng chanh, dây đau xương. Tay ông đã run, nhưng vẫn lên rừng tìm cây, phơi lá, và vẫn còn sắc thuốc.
- Bỏ không thì nhớ, biết đâu có người cần.
Tôi thỉnh thoảng ghé thăm ông. Ông Tĩnh vẫn cười, vẫn hiền.
- Ở đó, tôi đã sống trọn một đời.
Ngồi với ông, tôi nghĩ: Đời người lính có nhiều cách để phục vụ. Có người lao vào lửa, có người giữ chân lái xe, có người làm công việc điều tra, còn ông, chữa lành. Người ta nhớ những gì to tát, còn ông chỉ có gió nhớ!
Mỗi khi nghe tiếng còi xe cứu hỏa giữa phố, tôi lại nhớ mùi thuốc trong căn phòng cũ. Nhớ bàn tay run run của ông, giọng nói ấm và câu dặn dò:
- Giữ sức khỏe mà cứu người nhé!
Giờ ở đơn vị, vườn thuốc ông Tĩnh để lại mọc thêm rau xanh nữa. Cái ghế đá cũ ông hay ngồi vẫn còn, dưới một tán cây đầy gió.
Chiều nay gió lại từ rừng thổi về, khào khào qua khu vườn thuốc của ông.
Tôi ngồi đó, chợt thấy như ông Tĩnh vẫn đâu đây, giữa mùi quế, mùi ngải và tiếng gió phía rừng.






























