Gieo chữ trên đỉnh sương mờ
Chuyến công tác của chúng tôi tại xã Chiềng Khoong, tỉnh Sơn La vào những ngày tháng 10, khi những cơn mưa ập đến bất chợt, có những quãng đường như đánh vật với tay lái. Đoạn xóc ngược lưng, chỗ lại tuột dốc thăm thẳm, tưởng chừng hụt hơi thì tới những điểm trường.
Khi chuyến công tác kết thúc, để lại cho chúng tôi nhiều điều trăn trở về sự kiên cường của những con người nhỏ bé nơi đất nghèo này, đặc biệt hơn là hình ảnh những nhà giáo vùng cao, quanh năm gắn bó bản mường với niềm mong mỏi duy nhất đó là thắp lên ánh sáng của tri thức cho học trò nơi đây.

Một tiết dạy của cô giáo Đoàn Thị Nam Hà nơi vùng cao.
Những nhọc nhằn chỉ núi rừng mới hiểu
Từ trung tâm Sơn La, chúng tôi vượt quãng đường hơn 150 km đến trường Phổ thông dân tộc Bán trú, Tiểu học Mường Cai, xã Chiềng Khoong. Hơn 150 km nhưng chúng tôi cũng mất gần 3 giờ đồng hồ mới có thể tới nơi. Ngôi trường nép mình nơi núi non hùng vĩ. Một cảm giác sâu hun hút, xa vời vợi.
Trên đường vào bản, thật nhiều câu hỏi dấy lên trong tâm trí tôi, tôi luôn thắc mắc, cánh đàn ông công tác ở những nơi xa như này thì có thể cố gắng, nhưng cùng lắm cũng chỉ vài năm, nhưng động lực nào để cho những nữ nhà giáo có thể cần mẫn, dũng cảm đến vậy khi mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng và nhiều năm vẫn băng băng vượt quãng đường xa xôi vào nơi thâm sơn cùng cốc gieo con chữ?
Đón chúng tôi, cô giáo Đoàn Thị Nam Hà, một người đã dành cả cuộc đời gắn bó với nghề giáo. 34 năm gắn bó với nghề giáo, cũng gần nửa đời người, với kinh nghiệm 15 năm công tác tại xã Mường Cai cũ, nay là xã Chiềng Khoong, tỉnh Sơn La. Quê ở xã Hồng Lạc, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương cũ, nay là TP Hải Phòng, nữ nhà giáo người Kinh nơi miền xuôi đã nhiều lần muốn bỏ cuộc khi “ngược đường” lên vùng cao để gieo con chữ nơi vùng đất đầy rẫy những khó khăn mà xa xôi này.
Cô Hà cho biết, trường có 32 lớp với 896 học sinh, 10 điểm trường, điểm xa nhất là điểm Háng Lìa cách trường 20 km, học sinh ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, Thái và Khơ mú... Với cô, hơn 15 năm công tác tại trường, mỗi cung đường, mỗi đèo dốc chưa nơi nào cô chưa đặt chân qua. Ở vùng cao, thiếu thốn đủ bề, khó khăn nhất vẫn là khâu di chuyển, vận động trẻ em tới lớp, cô Hà tâm sự, con đường đất lên nhiều bản toàn dốc cao, sau cơn mưa càng thêm lầy lội.
“Đường lên bản nhiều nơi còn vô vàn khó khăn, thế này chưa thấm vào đâu, nhà báo ạ. Vẫn còn vài con dốc cao hơn nữa mới tới được các bản. Hôm nay còn thuận lợi, có những tháng mưa dầm, việc đi lại còn vất vả gấp mấy lần thế này. Đường trơn trượt, lại rất nguy hiểm, có nơi cung đường nhỏ, hẹp, việc di chuyển rất nguy hiểm, nếu như không cứng tay lái là có thể nguy hiểm đến tính mạng...”, cô Hà nói.

Dạy lời ca tiếng hát cho các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số.
Giống cô Hà, cô giáo Trần Thị Mến, năm nay 35 tuổi, quê ở tỉnh Hưng Yên, cũng ngược đèo, ngược dốc lên vùng cao gieo chữ. Là giáo viên quê ở miền xuôi, do vậy những ngày đầu công tác cũng còn nhiều điều bỡ ngỡ, nhưng rồi dần dần tiếp cận với công việc nơi miền cao sơn cước này, đến giờ cô lại càng thêm yêu nghề, yêu con trẻ nơi đây. Hơn 10 năm trên hành trình gieo chữ, với cô Mến, điều đọng lại trong tâm trí cô chính là nhìn thấy hành trình trưởng thành của các em học sinh nơi bản cao, dẫu còn khó khăn về vật chất, nhưng tình cảm của các em vô cùng trong sáng, điều đó cũng là sợi dây giúp cô gắn bó và là động lực để cô tiếp tục nỗ lực phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ.
Là giáo viên lớp 1, lớp mà nhiều người cho rằng là “khó” nhất do các em học sinh lần đầu tiên được tiếp xúc với con chữ và phải tiếp cận với những kiến thức mới hoàn toàn đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn, uốn nắn từ từ không sẽ dễ làm các em nản lòng. Cô Mến chia sẻ: Dạy lớp 1 tuy có khó khăn hơn so với các lớp học khác nhưng nếu biết cách, đúng phương pháp thì các con sẽ rất ham học. “Dù khó khăn nhưng bù lại học sinh nơi đây rất dễ thương, thật thà và mến cô giáo nên đã tiếp tôi thêm động lực để cống hiến. Nhìn thấy các em học sinh như con mình mà dù vất vả đi bộ hàng cây số để đến trường học con chữ nên tôi thấy thương các em như chính con mình”.
Đặc biệt, ở nơi đỉnh mờ sương, bà con đồng bào dân tộc thiểu số rất tình cảm, quý mến giáo viên. “Chính những tình cảm của phụ huynh, học sinh làm tôi thêm tình yêu và gắn bó với nghề”, cô Mến chia sẻ. Xa chồng, thương con bao nhiêu thì cô Mến lại thương các học trò nghèo bấy nhiêu. Nhiều khi thấy mùa lạnh, các em không có áo lạnh, cô lại bỏ tiền túi mua chiếc áo cho học trò, không thì lại kêu gọi những mối quan hệ thân tình, xin cho các em những bộ quần áo ấm giúp các em vượt qua các lạnh khi mùa đông tới.
Làm giáo viên vùng cao có hàng trăm kỷ niệm, nhưng kỷ niệm và những tình cảm giản dị của học trò nơi đây là những gì cô không thể quên. Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, hay Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 cô cũng như những giáo viên khác đều nhận được quà từ các học trò nghèo, những món quà tuy giản dị, nhưng chất chứa bao tình cảm, xen lẫn sự hồn nhiên vô tư của các em và cả các phụ huynh. Cô Mến cho biết: “Điều mà tôi nhớ nhất khi công tác ở đây đó là vào những ngày lễ hay ngày bình thường các em cũng tặng cho chúng tôi những quả dưa, quả bí, củ khoai các em mang tặng tôi hoặc các em mang một bó hoa rừng nhân ngày 20/10, 20/11. Đây là những món quà tuy rất đơn sơ rất mộc mạc nhưng là món quà thể hiện tình cảm của các em đến các thầy, các cô”.
Với học sinh lớp 1 mà cô chủ nhiệm, nhiều em chưa thạo tiếng phổ thông. Để giao tiếp và giúp các em tự tin hòa nhập cùng bạn bè, cô Mến đã tự mình học thêm tiếng Thái, tiếng Mông và tiếng đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó, việc truyền thụ kiến thức cho các em học sinh trở nên dễ dàng hơn. Chính sự nỗ lực vượt rào cản ngôn ngữ đó đã thể hiện tình thương và niềm hạnh phúc mà cô Mến muốn dành cho học trò vùng cao.
Em Sộng Thị Ngọc Bích, lớp 1A, Trường Phổ thông dân tộc Bán trú, Tiểu học Mường Cai, xã Chiềng Khoong là con em người đồng bào Mông, nhà xa trường hàng chục cây số, gia đình hoàn cảnh khó khăn, nhưng được cô Mến đến tận nhà vận động tới lớp, nay sau vài tháng được cô kèm vặp, chỉ bảo em đã biết đọc, biết viết thành thạo. Dẫu đọc chưa thật sự trôi chảy ở nhiều đoạn văn, nhiều con số, nhưng Bích vẫn luôn tự tin, nỗ lực để có thể học thật giỏi, báo đáp lại tình cảm của cô giáo dành cho mình. Bích bộc bạch “Năm nay con học lớp một cô Mến dạy con làm toán dạy biết chữ. Con rất yêu cô Mến... Tương lai con muốn trở thành cô giáo vùng cao giống cô Mến”.

Các thầy, cô giáo thường xuyên phải đi qua những con đường lầy bùn đất nơi bản nghèo để đến với học sinh.
Còn đó những trăn trở...
Là giáo viên vùng cao, khó khăn lúc nào cũng chồng chất khó khăn. Đối với các cô giáo nơi vùng cao Mường Cai, xã Chiềng Khoong, tỉnh Sơn La, khó khăn nhất không phải chuyện đường sá, mưa gió,... mà khó nhất vẫn là nhận thức của nhiều phụ huynh còn hạn chế, do vậy nhiều em học sinh không được tới trường học con chữ như bao bạn bè đồng trang lứa khác. Các cô cho rằng đó là điều vô cùng tiếc nuối.
Thông thường, học sinh ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa rất dễ bỏ học vào những ngày sau Tết Nguyên đán hoặc khi gia đình vào mùa làm nương, rẫy. Hiểu được điều này nên để đảm bảo sĩ số học sinh đến lớp, cô Hà, cô Mến hay những cô giáo khác của trường thường xuyên liên lạc với phụ huynh để tuyên truyền, vận động học sinh đến lớp. Bên cạnh đó, mỗi em học sinh đều được các cô chăm sóc, dạy dỗ như là con, là cháu nên đã tạo được sự gần gũi, yêu thương từ các em.
Câu chuyện chưa dứt, các cô giáo đã vội chuẩn bị “hành lý” vào bản gọi học sinh đến trường. Một đôi ủng, một chiếc áo ấm và một chiếc đèn pin là hành trang của các cô. Cô Hà cho biết, có những ngày sương mù và mưa gió đi lại thì như phải mò đường, may thay, hôm nay trời hửng nắng và đi lại thuận tiện hơn. Nhìn những vết chân của các cô giáo in sâu vào sắc nắng lung linh trên con đường bùn lầy, chúng tôi cảm thấy đó là ý chí quyết tâm đang được các thầy cô giáo tạc vào đất, chồng lấn sự xói mòn đói nghèo đang bủa vây nơi đất này bao đời nay.

Điều mong mỏi lớn nhất của các cô giáo đó là được thấy các em học sinh đến lớp đông đủ hằng ngày.
Trên con đường đất, cô Hà và cô Mến tâm sự, ở Trường Phổ thông dân tộc Bán trú, Tiểu học Mường Cai, nơi các cô đang giảng dạy, đa phần là học sinh người dân tộc thiểu số nên trong việc giao tiếp cũng gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, với tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, dù công tác xa gia đình, nhưng những giáo viên như cô Đoàn Thị Nam Hà, cô Trần Thị Mến vẫn nhiệt huyết với nghề, tận tình. Bởi, các cô đều biết rằng, đằng sau những khó khăn ấy là cả một tương lai tươi sáng đang chờ đón các em học sinh thân yêu của mình.
Cô giáo Nguyễn Thị Loan, hiệu trưởng của trường cho biết, chính cái nghèo đã cản bước nhiều trường hợp tới lớp, do vậy cô cũng như nhiều giáo viên khác của trường luôn tự dặn lòng mình phải nỗ lực và là tấm gương sáng để các em học tập và noi theo. Không ngại khó, ngại khổ để thắp lên những tia sáng tương lai cho các em. “Dù trường học còn nhiều thiếu thốn, đường đi đến lớp còn khó khăn, nhưng các thầy, cô giáo ở Trường Phổ thông dân tộc Bán trú, Tiểu học Mường Cai và rất nhiều ngôi trường khác trên khắp tỉnh Sơn La vẫn luôn kiên cường bám trường bám lớp, gánh trên vai nhiệm vụ cao cả vun đắp cho tương lai của các em nhỏ vùng biên cương. Tình yêu thương và sự bền bỉ của các cô chính là điểm tựa ấm áp, vững chắc nhất cho học sinh vùng cao” - cô Loan tâm sự.

Những tình cảm giản dị của học trò vùng sơn cước dành cho các thầy, cô giáo vùng cao.
Hoàng hôn bản cao buông xuống sát mặt, trên con đường tới bản, chúng tôi khẽ hỏi các cô: “Ngày Nhà giáo cũng sắp đến, các cô ước muốn điều gì?”. Các cô giáo cười hiền: “Điều chúng tôi ước muốn đó là 100% học sinh tất cả các bản đều được tới lớp, được đi học như bao bạn khác, không ai bỏ học... Đó là ước muốn lớn nhất rồi”.
Ở vùng cao tỉnh Sơn La, tỉ lệ học sinh tới trường đã tăng nhiều năm nay, nhưng nhiều ngả đường đến trường vẫn còn chênh vênh, con chữ ở nhiều nơi vẫn còn mong manh. Bởi vậy, các thầy, cô giáo luôn là người thắp lửa, bền bỉ và nỗ lực để những trang viết dày lên từng ngày, để mỗi ngả đường đều in dấu chân nhỏ bé của học trò đến lớp.





























