Giáo viên đề xuất 2 bộ sách Ngữ văn của NXBGDVN làm nền tảng cho sách giáo khoa thống nhất

Về mục tiêu, 2 bộ sách Ngữ văn của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã đáp ứng hoàn toàn yêu cầu cốt lõi của Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo yêu cầu: “Bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc, phấn đấu tới năm 2030 cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho tất cả học sinh”.

Tiếp theo đó, Nghị quyết 281/NQ-CP ngày 15/9/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 71 chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Rà soát, hoàn thiện Chương trình giáo dục phổ thông, tăng thời lượng các môn khoa học, công nghệ, tin học, nghệ thuật; bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc sử dụng từ năm học 2026 - 2027; thực hiện lộ trình đến năm 2030 cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho tất cả học sinh.”

Là một giáo viên đang giảng dạy cấp trung học phổ thông, từng là thành viên của Hội đồng lựa chọn sách giáo khoa cấp tỉnh, tôi xin đề xuất 2 bộ sách Ngữ văn của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống) làm nền tảng cho bộ sách Ngữ văn thống nhất, bởi những ưu điểm vượt trội về mặt khoa học sư phạm và tính hiệu quả trong thực tiễn giảng dạy.

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Đảm bảo mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất

Về mục tiêu, 2 bộ sách Ngữ văn của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã đáp ứng hoàn toàn yêu cầu cốt lõi của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 là hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh.

Thứ nhất là tính công cụ của môn Ngữ văn. Khác với môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học, tên gọi Ngữ văn ở cấp trung học bao hàm hai phân môn “Văn/Văn học” và “Ngữ/Ngôn ngữ”.

Tên gọi này gợi ra cách dạy và học mới, đó là học văn học dựa vào ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy, môn Ngữ văn được xác định là môn công cụ để rèn luyện 4 kỹ năng cốt lõi: Đọc, Viết, Nói, Nghe. Đây là trục chính xuyên suốt chương trình phổ thông.

Ngoài ra, mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 là hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh. Hai năng lực của bộ môn Ngữ văn là năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Do đó, kiến thức Văn học và Tiếng Việt trở thành phương tiện giúp học sinh phát triển 4 kỹ năng trên.

Từ đó, học sinh cũng sẽ hoàn thiện những phẩm chất chủ yếu: “yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính.”

Có thể khẳng định, dạy học phát triển năng lực cho học sinh không có nghĩa là chỉ rèn luyện kỹ năng, không chú trọng bồi dưỡng phẩm chất, mà ngược lại thông qua rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực là để bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh.

Do đó, những văn bản được tuyển chọn trong sách giáo khoa đều có chủ đích của tác giả là hướng đến những phẩm chất ấy.

Chẳng hạn, thông qua phân tích sự khác biệt về phong cách thơ (cổ điển và lãng mạn) ở lớp 12, học sinh được bồi dưỡng phẩm chất “nhân ái” từ việc biết “tôn trọng sự khác biệt trong phong cách cá nhân”.

Thứ hai là thay đổi phương pháp dạy học. Điều dễ nhận thấy là khi thực hiện chương trình Ngữ văn 2018 trong 2 bộ sách là giáo viên không còn sử dụng phương pháp “Giảng văn” mà chuyển sang “Đọc hiểu văn bản” đã thể hiện rõ yêu cầu về kỹ năng và phương pháp mới.

Cụ thể, trong mỗi bài học, 2 bộ sách đều giới thiệu các Tri thức ngữ văn (gồm Văn học và Tiếng Việt), sau đó là tìm hiểu các văn bản cụ thể (ví dụ minh họa).

Hiểu cơ bản, mỗi văn bản là một bài tập tiêu biểu cho thể loại, vì vậy phân tích văn bản bài tập là để hiểu tri thức, chứ không phải dạy một văn bản độc lập theo phương pháp truyền thống trước đây.

Cấu trúc bài học khoa học, dễ dạy và dễ học

Về cấu trúc, 2 bộ sách Ngữ văn của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam được thiết kế khoa học, đơn giản và đặc biệt dễ dạy, dễ tiếp cận.

Thứ nhất là yêu cầu cần đạt của từng bài được xác định rõ ràng, bám sát theo yêu cầu cần đạt của chương trình bộ môn. Mỗi khối lớp có khoảng 9 bài học/chủ điểm, mỗi bài đều xác định từ 6-7 yêu cầu, trong đó 5-6 yêu cầu hình thành năng lực và 1 yêu cầu hướng đến những phẩm chất tốt đẹp được quy định trong chương trình.

Chẳng hạn, chủ điểm “Những sắc điệu thi ca” (Ngữ văn 12 sách Chân trời sáng tạo), thiết kế với 6 yêu cầu nhằm cụ thể hóa và rèn luyện đầy đủ 4 kỹ năng Ngữ văn.

Hoặc, chủ điểm “Khả năng lớn lao của tiểu thuyết” (Ngữ văn 12 sách Kết nối tri thức với cuộc sống) cũng đặt ra 6 mục tiêu hướng đến các kỹ năng thực hành ngôn ngữ, cho thấy sự nhất quán về việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Tuy 2 chủ điểm khác nhau nhưng 2 bộ sách đều hướng đến việc bồi dưỡng lòng “nhân ái” cho học sinh.

Thứ hai là thiết kế xoay quanh trục kỹ năng. Cấu trúc bài học được thiết kế theo một quy chuẩn chung, xoay quanh trục 4 kỹ năng: Đọc (bao gồm hình thành tri thức ngữ văn, tìm hiểu văn bản minh họa và thực hành Tiếng Việt), Viết (bao gồm hình thành tri thức kiểu bài, tìm hiểu bài văn mẫu và thực hành), Nói và Nghe (tập trung rèn luyện kỹ năng trình bày, biết lắng nghe, trao đổi và các kỹ năng mềm khác).

Với cách thiết kế này, học sinh có cái nhìn tổng thể về bài học, đi từ lý thuyết đến thực hành, tránh việc học tủ, học vẹt.

Điều này cũng lý giải vì sao đề kiểm tra định kỳ khuyến khích cho văn bản mới, ngoài sách giáo khoa, tức là học sinh biết vận dụng tri thức vào bối cảnh văn bản mới để đọc hiểu, hoặc nếu cần thiết sử dụng lại văn bản đã học thì phải thay đổi hệ thống câu hỏi đọc hiểu nhằm đánh giá đúng năng lực học sinh.

Hệ thống câu hỏi gắn tri thức và năng lực

Điểm nổi bật nhất của 2 bộ sách này là hệ thống câu hỏi trong sách của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam được xây dựng khoa học và chặt chẽ. Mỗi câu hỏi đều gắn với một tri thức Ngữ văn cụ thể, nhằm kiến giải đặc điểm thể loại của văn bản.

Vì thế, trước khi trả lời câu hỏi, học sinh phải phân tích, nhận diện dạng câu hỏi và biết vận dụng tri thức vào bối cảnh văn bản mới để trả lời.

Chẳng hạn, văn bản “Tràng giang” (sách Chân trời sáng tạo) điển hình cho phong cách lãng mạn.

Các câu hỏi từ 1-5 giúp rèn luyện kỹ năng Đọc hiểu văn bản; Câu 6 (so sánh 2 bài thơ, 2 phong cách) giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn tri thức ngữ văn và chuẩn bị cho kỹ năng viết kiểu bài so sánh; Câu 7 là câu hỏi tổng hợp, rèn luyện tư duy lập luận và khả năng khái quát về phong cách lãng mạn.

Tóm lại, 2 bộ sách Ngữ văn của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã thể hiện một cách tiếp cận đúng đắn và hiệu quả đối với Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Với cấu trúc lấy năng lực làm trọng tâm (kỹ năng làm trục chính), 2 bộ sách này hoàn toàn xứng đáng được xem xét để làm nền tảng cho bộ sách giáo khoa Ngữ văn thống nhất toàn quốc.

Sự cần thiết một bộ sách giáo khoa thống nhất

Thực hiện chương trình Ngữ văn 2018, hiện có 3 bộ sách được Bộ Giáo dục và Đào tạo duyệt, mỗi trường có thể chọn một hoặc nhiều bộ sách để giảng dạy.

Mỗi bộ sách là một công trình khoa học, có nét độc đáo riêng không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hiện ở nhiều đơn vị trường học đã phát sinh nhiều bất cập. Vì thế, một bộ sách giáo khoa thống nhất sẽ khắc phục được điều đó, bởi nhiều lý do.

Thứ nhất, đảm bảo mạch kiến thức liên thông trong suốt cấp phổ thông. Vì khung chương trình là pháp lệnh, sách giáo khoa là phương tiện để triển khai chương trình nên có hiện tượng ở 2 cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, học sinh học 2 bộ sách khác; hoặc ngay trong một cấp học của một trường, mỗi khối lớp học 1 bộ sách khác nhau.

Chẳng hạn lớp 10 học sinh học sách Cánh Diều, lên lớp 11 và 12 học sách Chân trời sáng tạo. Điều đó dẫn đến hiện tượng có tác phẩm trùng lặp nhau, gây ra sự nhàm chán ở học sinh.

Chẳng hạn, truyện “Lão Hạc” là một ví dụ điển hình về sự trùng lặp (sách Cánh Diều lớp 8 và sách Chân trời sáng tạo lớp 12), hoặc “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (lớp 10 sách Kết nối tri thức với cuộc sống và lớp 12 sách Chân trời sáng tạo),…

Dù mỗi cấp lớp có yêu cầu cần đạt khác nhau (lớp 8 tập trung vào việc cảm thụ và phân tích nhân vật ở mức độ trung học cơ sở, lớp 12 tập trung vào việc đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử văn học hiện thực phê phán, phân tích chiều sâu triết lý và nghệ thuật tự sự phức tạp hơn) nhưng cũng sẽ gây ra tâm lý lơ là.

Trên lý thuyết, giáo viên có thể thay thế văn bản khác cùng thể loại, nhưng cũng có nguy cơ gây ra nhiều hệ lụy ngoài tầm kiểm soát.

Hoặc, học sinh học 2 bộ sách cùng một cấp học sẽ khiến học sinh khó khăn khi liên hệ kiến thức lớp trước.

Chẳng hạn, câu hỏi 6 bài 1 sách Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo, yêu cầu học sinh xác định phong cách sáng tác và thời kỳ văn học 3 tác phẩm: “Hoàng Hạc lâu” (Thôi Hiệu), “Độc Tiểu Thanh kí” (Nguyễn Du) và “Thơ duyên” (Xuân Diệu).

Câu này sẽ làm khó học sinh nếu lớp 10 các em học sách Cánh Diều, lớp 11 và 12 học sách Chân trời sáng tạo bởi lớp 10 các em không học bài “Thơ duyên”. Điều đó cho thấy, cần có một bộ sách thống nhất xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12.

Thứ hai, sách giáo khoa thống nhất cần dựa trên nền tảng của sách giáo khoa hiện hành nên hoàn thiện về nội dung và cấu trúc khoa học.

Dù biết rằng khung chương trình là pháp lệnh, còn sách giáo khoa là công cụ triển khai chương trình nhưng khung chương trình vẫn chỉ là định hình cấu trúc cơ bản nên vẫn còn hiện trạng “vênh” nhau về nội dung trong các bộ sách hiện hành.

Vì thế, cần thiết có sách chuẩn kiến thức và kỹ năng thống nhất trên toàn quốc để làm nền tảng, nhưng vẫn có không gian để giáo viên và học sinh sáng tạo, tránh quay lại “lối mòn” độc quyền, rập khuôn.

Thứ ba, sách thống nhất tiếp tục tập trung vào phát triển năng lực học sinh. Nội dung và bài tập cần được thiết kế theo hướng phát triển năng lực người học (tự học, giải quyết vấn đề, sáng tạo,…) một cách đồng bộ trên toàn quốc.

Một bộ sách dùng chung cho cả nước, cho tất cả các đối tượng chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần có sự phân hóa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của học sinh, đặc biệt là tài liệu cho học sinh khá, giỏi.

Ngoài ra, khi chuyển đổi từ đa dạng sách giáo khoa sang một bộ sách thống nhất, việc tổ chức bồi dưỡng trên diện rộng và chuyên sâu cho giáo viên là rất cần thiết, nhằm đảm bảo chất lượng đồng bộ trên cả nước.

Tóm lại, điều mong mỏi của giáo viên cả nước là bộ sách giáo khoa thống nhất nên dựa trên nền tảng của những bộ sách hiện hành, hạn chế tối đa việc xáo trộn nội dung và cấu trúc nhằm tạo tính ổn định cho việc dạy và học, đồng thời làm nền tảng cung cấp sách miễn phí cho học sinh từ năm 2030, đúng theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW và Nghị quyết 281/NQ-CP.

Vì thế, dưới góc độ là giáo viên và từng tham gia chọn sách, người viết thấy 2 bộ sách giáo khoa của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phù hợp để làm một bộ sách thống nhất.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Trần Văn Tâm - giáo viên Ngữ văn THPT tại tỉnh Tây Ninh

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/giao-vien-de-xuat-2-bo-sach-ngu-van-cua-nxbgdvn-lam-nen-tang-cho-sach-giao-khoa-thong-nhat-post255380.gd