Giảng viên Đại học Y Hà Nội: 'Tinh hoa ngành Y không nằm ở hào nhoáng, mà ở chuyên môn'
Đằng sau ánh hào quang của những video 'triệu view' là chặng đường đầy áp lực, cạnh tranh khốc liệt mà chỉ người trong cuộc mới hiểu hết.
Những ngày gần đây, sự kiện “Match Day” – buổi chọn chuyên ngành bác sĩ nội trú của trường Đại học Y Hà Nội lan tỏa mạnh mẽ trên mạng xã hội. Nhiều clip ghi lại khoảnh khắc xúc động khi các tân bác sĩ gọi tên chuyên ngành mơ ước, thu hút hàng triệu lượt xem, biến ngày này trở thành hiện tượng.

Tân bác sĩ nội trú Đinh Duy Khương (Ninh Bình) chọn chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của cộng đồng. Ảnh: NTCC
Tuy nhiên, đằng sau ánh hào quang của những video "triệu view" là chặng đường đầy áp lực, cạnh tranh khốc liệt mà chỉ người trong cuộc mới hiểu hết.
Chương trình bác sĩ nội trú vốn được xem là đỉnh cao trong đào tạo y khoa tại Việt Nam. Đây là mô hình có nguồn gốc từ Pháp, du nhập vào Việt Nam từ năm 1974, và được Đại học Y Hà Nội triển khai đầu tiên. Từ đó đến nay, chương trình này luôn được đánh giá là tinh hoa của ngành Y, nơi hội tụ những bác sĩ trẻ xuất sắc nhất ngay sau khi tốt nghiệp.
Chia sẻ với Gia đình Việt Nam, ThS.BS Nguyễn Minh Nghĩa – giảng viên Khoa Tạo hình Phẫu thuật thẩm mỹ, Trường Đại học Y Hà Nội cho biết, khái niệm bác sĩ nội trú trước đây còn khá xa lạ, song vài năm trở lại đây trở nên phổ biến nhờ sức lan tỏa trên mạng xã hội.
“Ngày xưa, bác sĩ nội trú thực sự là tinh hoa, khó đỗ hơn bây giờ rất nhiều. Tôi là bác sĩ nội trú Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ khóa 37, Trường Đại học Y Hà Nội. Suốt hai năm liền, chỉ duy nhất mình tôi đỗ vào chuyên ngành này, trở thành bác sĩ nội trú duy nhất của cả hai khóa. Đến khóa 39 thì mới có thêm 2 người nữa”, bác sĩ Nghĩa nhớ lại.

Ths.BS Nguyễn Minh Nghĩa, giảng viên Khoa Tạo hình Phẫu thuật thẩm mỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
Theo bác sĩ Nghĩa, chương trình đào tạo nội trú bắt nguồn từ các nước phương Tây, đặc biệt là Pháp. Đại học Y Hà Nội là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam áp dụng mô hình này, nhờ tham khảo và học hỏi từ chính hệ thống đào tạo y khoa Pháp. Đến nay, Pháp vẫn duy trì chương trình và hỗ trợ cấp suất học cho bác sĩ Việt Nam.
Trước năm 2018, thí sinh dự thi nội trú phải chọn chuyên ngành trước khi thi. Điều này dẫn đến nhiều bất cập: dù điểm rất cao, nếu không trúng chỉ tiêu ngành đã chọn thì vẫn bị loại, không có cơ hội chuyển sang ngành khác.
“Ví dụ, ngành Mắt hay Sản chỉ lấy 3 chỉ tiêu. Có khi 10 thí sinh đạt điểm rất cao nhưng chỉ 3 người đỗ, còn lại bị loại. Năm 2012 tôi dự thi, chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình chỉ lấy 2 người, và cuối cùng tôi là người duy nhất vượt qua điểm sàn”, bác sĩ Nghĩa dẫn chứng.
Để tránh lãng phí nhân lực, từ khoảng năm 2018, Trường Đại học Y Hà Nội đã áp dụng cơ chế Matching Day. Theo đó, thí sinh được xếp từ điểm cao xuống thấp và lựa chọn trong các chuyên ngành còn trống. Nhờ vậy, nhiều thí sinh giỏi vẫn có cơ hội trở thành bác sĩ nội trú, đồng thời giúp các chuyên ngành ít người biết đến cũng có thêm bác sĩ chất lượng.

Ths.BS Nguyễn Minh Nghĩa trong giờ giảng dạy sinh viên.
“Hào nhoáng” chỉ là bề ngoài, cốt lõi vẫn là chuyên môn
Bác sĩ Nghĩa đặc biệt nhấn mạnh, các bác sĩ trẻ không nên sa vào “hào nhoáng” khi mạng xã hội ca tụng bác sĩ nội trú là “tinh hoa ngành Y”.
“Những lời khen trai đẹp, gái xinh chỉ thỏa mãn nhất thời. Cốt lõi của bác sĩ là phải giỏi chuyên môn và kiến thức”, anh chia sẻ.

Ths.BS Nguyễn Minh Nghĩa chụp cùng thầy của mình là GS.TS Trần Thiết Sơn, nguyên Trưởng Bộ môn Phẫu thuật tạo hình, Đại học Y Hà Nội (Ảnh: BSCC)
Bản thân bác sĩ Nghĩa sau 3 năm học nội trú (2012–2015), tiếp tục tu nghiệp tại Nhật và Pháp, rồi làm nghiên cứu sinh tại bộ môn, đến nay sắp hoàn thành. Anh thừa nhận ngành Y vô cùng vất vả, đòi hỏi không ngừng học tập và thích ứng với những thay đổi mỗi ngày.
“Ngày trước, đỗ được bác sĩ nội trú rất khó, số lượng ít nên cơ hội được thầy cô kèm cặp trực tiếp rất nhiều. Hiện nay số lượng đào tạo nhiều hơn, thầy cô không thể dành nhiều thời gian cho từng người, nên mỗi bác sĩ trẻ càng phải chủ động tự học, rèn luyện bản thân”, bác sĩ Nghĩa nhắn nhủ.