Giải pháp nào giảm nghèo bền vững?

Thái Nguyên đặt mục tiêu từ nay đến năm 2030, bình quân mỗi năm giảm 1-1,5% số hộ nghèo đa chiều; giảm ít nhất 3% hộ nghèo đa chiều tại các xã khó khăn và 3-4% hộ nghèo dân tộc thiểu số. Đây là những chỉ tiêu đầy thách thức, nhất là khi nhiều xã phía Bắc của tỉnh vẫn gặp khó khăn về kết cấu hạ tầng nông thôn, trình độ dân trí chưa đồng đều, dẫn đến việc tiếp thu và ứng dụng công nghệ vào sản xuất còn hạn chế.

Đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống nhân dân các địa phương miền núi, vùng cao trong tỉnh.

Đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống nhân dân các địa phương miền núi, vùng cao trong tỉnh.

Khó khăn còn hiện hữu

Sau sáp nhập, thực hiện chỉ đạo của tỉnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã tiến hành rà soát số hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn. Đến đầu năm 2025, toàn tỉnh (gồm Thái Nguyên và Bắc Kạn) ghi nhận 23.061 hộ nghèo (chiếm 5,46%), 15.482 hộ cận nghèo (3,67%), trong đó 19.354 hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 83,93% tổng số hộ nghèo.

Con số này cho thấy tình trạng hộ nghèo vẫn còn đáng kể, trong khi tiềm lực của nhiều địa phương hạn chế.

Cụ thể như xã Ngân Sơn (thành lập trên cơ sở hợp nhất các xã Đức Vân, Cốc Đán và thị trấn Vân Tùng), hiện có 27 thôn, khu với hơn 1.890 hộ dân, 8.260 nhân khẩu. Với địa hình chủ yếu đồi núi xen khe suối, độ dốc lớn, xã gặp nhiều khó khăn và thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội.

Bà Dương Thị Phương Quế, Chủ tịch UBND xã Ngân Sơn, cho biết: Điều kiện hạ tầng trên địa bàn xã chưa đồng bộ, nhiều thôn, bản còn gặp khó khăn về giao thông, điện, thủy lợi, nhà văn hóa và cơ sở giáo dục, ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư và mở rộng sản xuất. Địa phương cũng đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng; phần lớn lao động chưa qua đào tạo nghề và khó tiếp cận công nghệ mới trong sản xuất.

Quy mô kinh tế chủ yếu nhỏ lẻ, manh mún, chưa hình thành chuỗi giá trị, dễ bị biến động bởi giá cả và thị trường. Ngoài ra, nguy cơ sạt lở, lũ ống, lũ quét tại các thôn vùng cao cũng tác động trực tiếp đến đời sống và sản xuất. Những khó khăn này đang đặt ra thách thức lớn cho công tác giảm nghèo tại xã, bà Dương Thị Phương Quế cho biết thêm.

Chia sẻ của bà Dương Thị Phương Quế có cơ sở, bởi tại nhiều địa phương trong tỉnh, sau mỗi trận thiên tai, nhà cửa và ruộng vườn của người dân bị hư hại, dẫn tới nguy cơ nhiều hộ từng thoát nghèo lại rơi vào cảnh khó khăn. Thiên tai cũng khiến nhiều tuyến đường giao thông ở các xã phía Bắc bị sạt lở, hư hỏng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đi lại và phát triển kinh tế của người dân.

Việc thử nghiệm đưa giống cây trồng mới vào sản xuất là một trong những giải pháp nhằm hướng dẫn hộ nghèo sản xuất hiệu quả. Trong ảnh: Cơ quan chuyên môn đánh giá mô hình ngô lai đơn F1 biến đổi gen NK7328 Bt/GT tại xã Côn Minh.

Việc thử nghiệm đưa giống cây trồng mới vào sản xuất là một trong những giải pháp nhằm hướng dẫn hộ nghèo sản xuất hiệu quả. Trong ảnh: Cơ quan chuyên môn đánh giá mô hình ngô lai đơn F1 biến đổi gen NK7328 Bt/GT tại xã Côn Minh.

Ngoài những khó khăn đã nêu, Thái Nguyên vẫn còn 7.900 hộ thiếu việc làm, gồm 5.801 hộ nghèo và 2.099 hộ cận nghèo. Có 8.976 hộ mà tỷ lệ người phụ thuộc trong gia đình trên 50% (gồm trẻ em, người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng) thuộc nhóm hộ nghèo, cận nghèo. Đáng chú ý, toàn tỉnh vẫn còn trên 5.060 hộ nghèo, cận nghèo có trẻ em suy dinh dưỡng, và 3.764 hộ thiếu hụt bảo hiểm y tế. Những con số này phản ánh thách thức lớn trong công tác giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội.

Trên địa bàn vẫn còn nhiều hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 đến dưới 30 không tham gia các khóa đào tạo hoặc chưa có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục (5.099 hộ nghèo, 1.460 hộ cận nghèo). Ngoài ra, có 1.808 hộ có ít nhất một trẻ em từ 3 đến dưới 16 tuổi không được học đúng cấp học theo độ tuổi. Một khó khăn lớn khác là toàn tỉnh vẫn còn 4.169 hộ nghèo, cận nghèo thiếu hụt về diện tích nhà ở.

Bên cạnh đó, Thái Nguyên còn 3.616 hộ nghèo, cận nghèo chưa tiếp cận được nguồn nước sạch; 16.574 hộ chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh... Những con số này phản ánh những hạn chế đáng kể trong tiếp cận cơ sở hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, đặt ra thách thức lớn trong quá trình nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Cần nỗ lực của cả hệ thống chính trị

Xác định công tác giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, Thái Nguyên đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. Tỉnh tập trung tăng cường phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo, triển khai với nhiều hình thức và nội dung phong phú, đồng thời nâng cao nhận thức, từng bước xóa bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại và khơi dậy ý chí vươn lên của người dân.

Theo ông Nguyễn Thành Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn tỉnh, thành công nổi bật của Thái Nguyên sau sáp nhập là triển khai hiệu quả Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát theo Công điện số 102/CD-TTg ngày 6/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ sau hơn một tháng (đến ngày 8/8/2025), toàn tỉnh đã hỗ trợ đầy đủ 6.953 hộ dân, trong đó 5.426 hộ được xây mới, 1.527 hộ được sửa chữa, hoàn thành 100% kế hoạch đề ra.

Dù đạt được nhiều kết quả, để hoàn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn đến năm 2030, Thái Nguyên vẫn còn nhiều nhiệm vụ quan trọng. Tỉnh đã định hướng phát triển đồng bộ hạ tầng kinh tế - xã hội tại các xã khó khăn, vừa phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh, vừa tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu; tiếp tục triển khai các giải pháp giảm nghèo bền vững, xây dựng cộng đồng hạnh phúc; nâng cao năng lực, công tác truyền thông, giám sát, đánh giá; đồng thời phát huy vai trò tích cực của cộng đồng trong quá trình thực hiện.

Để thực hiện hiệu quả các định hướng đã đề ra, tỉnh tập trung tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền về công tác giảm nghèo bền vững. Cụ thể, các cấp ủy, chính quyền xác định mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong triển khai thực hiện. Đồng thời, tỉnh xây dựng cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện chương trình đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở, ban hành kế hoạch giai đoạn và hằng năm; thành lập ban chỉ đạo các cấp; ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc thù nhằm đảm bảo chương trình triển khai hiệu quả, không bỏ sót đối tượng.

Ông Nguyễn Mỹ Hải, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường.

Các lớp tập huấn giúp hợp tác xã, hộ dân nâng cao năng lực sản xuất và mở cơ hội tiếp cận khoa học công nghệ cho hộ nghèo.

Các lớp tập huấn giúp hợp tác xã, hộ dân nâng cao năng lực sản xuất và mở cơ hội tiếp cận khoa học công nghệ cho hộ nghèo.

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, trong giảm nghèo cần được chú trọng. Đồng thời, tiếp tục triển khai hiệu quả phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”; khen thưởng kịp thời các hộ nỗ lực vươn lên thoát nghèo tiêu biểu, cùng các tổ chức, cá nhân có những việc làm thiết thực hỗ trợ người dân.

Một trong những giải pháp quan trọng nữa là tỉnh cần thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ giảm nghèo gắn với mục tiêu phát triển bền vững.

Trong đó, cần triển khai đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ; tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng vùng khó khăn. Các mô hình này nên gắn kết với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hướng tới nâng cao tính tự chủ, phát triển xanh, ứng dụng công nghệ số và phù hợp với từng địa phương.

Cùng với đó, tỉnh tăng cường trợ giúp xã hội, giáo dục nghề nghiệp và phát triển sinh kế, tạo việc làm bền vững, nâng cao khả năng tự chủ kinh tế của người dân thông qua mở rộng tín dụng chính sách.

Đồng thời, đẩy mạnh hiện đại hóa và chuyển đổi số trong dự báo thị trường lao động, kết nối cung - cầu, quản lý nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở dữ liệu lao động; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm lao động trong khu vực phi chính thức và mở rộng cơ hội việc làm bền vững.

Giảm nghèo bền vững không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Do đó, việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho công tác này là yêu cầu tất yếu. Cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, quản lý và sử dụng các nguồn lực đúng nguyên tắc, tiêu chí, quy định hiện hành; thực hiện công khai, minh bạch, ưu tiên theo thứ tự và tránh dàn trải, để đạt hiệu quả bền vững.

Tùng Lâm

Nguồn Thái Nguyên: https://baothainguyen.vn/xa-hoi/202509/giai-phap-nao-giam-ngheo-ben-vung-cb64414/
Zalo