Giải pháp nào cho ngành chuối Việt Nam trước dịch bệnh nguy hiểm?
Để bảo vệ vị thế xuất khẩu chuối trước 'cơn ác mộng' Panama, các nhà quản lý và khoa học thống nhất siết chặt an ninh sinh học và nhân rộng giống kháng bệnh là giải pháp sống còn để ngành hàng này phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu 175 nghìn ha vào năm 2030.

Giải pháp nào cho ngành chuối Việt Nam trước dịch bệnh nguy hiểm?
Ngày 13/12, tại TP Hồ Chí Minh, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Báo Nông nghiệp và Môi trường cùng Viện Nghiên cứu Rau quả, phối hợp tổ chức Diễn đàn “Giải pháp phòng trừ bệnh héo vàng hại chuối”.
Tại diễn đàn, ông Lê Quốc Doanh, Nguyên thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn (Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam) nhấn mạnh tầm quan trọng của cây chuối trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Không chỉ là cây ăn quả có diện tích lớn, chuối còn đóng vai trò quan trọng trong sinh kế của nông dân và kim ngạch xuất khẩu quốc gia.
Ông Doanh cho biết, mặc dù đạt được những con số tăng trưởng ấn tượng, nhưng ngành hàng chuối đang phải đối mặt với thách thức sinh tử từ dịch bệnh, đặc biệt là bệnh héo vàng Panama. Tại nhiều địa phương, loại bệnh này đã và đang gây thiệt hại nặng nề, buộc bà con phải phá bỏ vườn hoặc chuyển đổi cây trồng. Do đó, việc tìm ra giải pháp phòng trừ hiệu quả, đặc biệt là bộ giống kháng bệnh và quy trình canh tác an toàn sinh học là nhiệm vụ cấp bách để đảm bảo sự phát triển bền vững cho ngành hàng tỷ đô này.

Ông Lê Quốc Doanh, Nguyên thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn (Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam), phát biểu khai mạc.
Theo báo cáo của ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, tính đến năm 2025, tổng diện tích chuối của Việt Nam ước đạt 163,5 nghìn ha, với sản lượng khoảng 2,75 triệu tấn. Tốc độ tăng trưởng diện tích bình quân giai đoạn 2015 - 2025 đạt 2,1%/năm, trong khi sản lượng tăng trưởng ấn tượng ở mức 3,6%/năm.
Về vị thế xuất khẩu, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu chuối đã đạt 371,9 triệu USD, vươn lên đứng thứ 4 trong nhóm các loại trái cây xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, xếp sau sầu riêng, thanh long và dừa.
Tuy nhiên, ông Mạnh cũng chỉ rõ những thách thức lớn mà ngành hàng này đang đối mặt. Bên cạnh quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nhập khẩu là một bài toán cấp thiết.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, chia sẻ tại diễn đàn.
“Cụ thể, thị trường EU đang áp dụng các quy định nghiêm ngặt về mức dư lượng tối đa (MRLs) đối với kim loại nặng, trong đó mức giới hạn cho Cadmium trên chuối là 0,020 mg/kg. Bên cạnh đó, các thị trường như Hàn Quốc yêu cầu sản phẩm phải là chuối xanh tại thời điểm xuất khẩu và bắt buộc có giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật xác nhận lô hàng không nhiễm đất hay sinh vật gây hại”, ông Mạnh chia sẻ thêm.
Tâm điểm của Diễn đàn xoay quanh "cơn ác mộng" của người trồng chuối toàn cầu, đó là bệnh héo vàng (Fusarium Wilt), đặc biệt là chủng nhiệt đới 4 (TR4).
Trong tham luận về tình hình bệnh hại tại Việt Nam, TS. Trần Ngọc Hùng (Bộ môn Công nghệ Sinh học, Viện Nghiên cứu Rau quả) cho biết, bệnh héo vàng trên chuối đã xuất hiện và gây hại tại các vùng trồng trọng điểm phía Bắc như Lào Cai, Hưng Yên từ những năm 2015. Đến năm 2020, bệnh tiếp tục được ghi nhận gây thiệt hại nặng nề tại Lào Cai và nhiều địa phương khác. Đây là loại bệnh nguy hiểm có khả năng lưu tồn trong đất thời gian dài, tấn công vào hệ thống mạch dẫn làm cây héo rũ và chết, buộc nông dân ở nhiều nơi phải phá bỏ vườn hoặc chuyển đổi cây trồng.
Mang đến góc nhìn quốc tế, TS. Mary Grace B. Saldajeno, Chuyên gia từ Tập đoàn Dole (Philippines), đã chia sẻ những kinh nghiệm "xương máu" trong việc quản lý bệnh Fusarium tại quốc gia xuất khẩu chuối tươi lớn thứ 4 thế giới này. Theo TS. Mary Grace B. Saldajeno, Philippines ghi nhận đợt bùng phát đầu tiên tại Calinan, Davao vào năm 2002. Đến cuối năm 2005, ca nhiễm chủng TR4 đầu tiên được xác nhận. Giai đoạn 2010 - 2015 chứng kiến sự lây lan nhanh chóng của dịch bệnh trên toàn đảo Mindanao, gây thiệt hại diện tích lớn vùng trồng chuối Cavendish xuất khẩu.

TS.Trần Ngọc Hùng, Bộ môn Công nghệ Sinh học, Viện Nghiên cứu rau quả, trình bày tại diễn đàn.
Chuyên gia từ Dole nhấn mạnh, kháng bệnh không đồng nghĩa với miễn dịch hoàn toàn. Do đó, chiến lược quản lý hiệu quả phải là sự kết hợp đồng bộ giữa việc sử dụng giống kháng và an ninh sinh học. Về giống, các giống kháng hoặc chịu bệnh đã được phát triển và đưa vào sản xuất thương mại. Tuy nhiên, việc lựa chọn giống cần cân nhắc kỹ lưỡng đến sự chấp nhận của thị trường về hương vị, độ chín và khả năng vận chuyển.
"Về an ninh sinh học, đây là yếu tố sống còn. Cần kiểm soát chặt chẽ nguồn giống, đất, nước và sự di chuyển của con người, máy móc ra vào vùng trồng để ngăn chặn mầm bệnh phát tán”, ông Dole chia sẻ kinh nghiệm.
Trước thực trạng trên, các đại biểu tại Diễn đàn thống nhất rằng phát triển bộ giống kháng bệnh là giải pháp then chốt cho ngành chuối Việt Nam.
Theo báo báo về thực hiện Quyết định 4085/QĐ-BNN-TT ngày 27/10/2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), công tác chọn tạo giống chuối kháng bệnh Panama đã được đẩy mạnh. Hiện nay, một số giống chuối qua thử nghiệm thực tế đã chứng minh được khả năng kháng bệnh Panama với tỷ lệ cao, mở ra triển vọng lớn cho sản xuất. Điển hình là giống UNI 126 do Unifarm phát triển và giống Furi 5 của Viện Nghiên cứu Rau quả. Các giống này đang được khuyến cáo nhân rộng để thay thế dần các diện tích nhiễm bệnh hoặc có nguy cơ cao.

Vườn chuối Việt Nam áp dụng quy trình canh tác sạch, đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập khẩu khó tính.
Kết luận diễn đàn, ông Lê Quốc Doanh khẳng định, mục tiêu đến năm 2030, diện tích chuối cả nước sẽ ổn định ở mức 165 - 175 nghìn ha, với sản lượng khoảng 2,6 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu này, ngành nông nghiệp xác định việc kiểm soát hiệu quả bệnh héo vàng Panama là điều kiện tiên quyết.
Theo đó, các giải pháp trọng tâm được thống nhất gồm siết chặt an ninh sinh học tại vùng trồng, kiểm soát chặt nguồn giống, đất, nước và quy trình canh tác; đồng thời đẩy mạnh chọn tạo, nhân rộng các giống chuối kháng bệnh đã được kiểm chứng hiệu quả trong thực tế.
Bên cạnh đó, việc chuẩn hóa sản xuất theo yêu cầu của thị trường nhập khẩu, xây dựng vùng trồng tập trung và tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân cũng được xem là hướng đi lâu dài nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững cho ngành hàng chuối Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Bài và ảnh: Lưu Niệm/Báo Tin tức và Dân tộc

































