Giải oan ức của dân

Có công được thưởng, có lỗi bị phạt, đó là cách trị nước từ xưa. Không chỉ quy định về các hình phạt với các tội danh và mức xử phạt, còn giúp cho người oan uổng có cơ hội được rửa oan, đó là nguồn gốc của hình luật.

Giải oan cho dân lấy đức

Thời xa xưa, mỗi khi có thiên tai, quan niệm của các nước phương Đông cho rằng “Trời” phạt vua, người trị nước. Sách xưa Trung Quốc cho rằng Vua Thành Thang, người sáng lập nhà Thương, đã nêu ra 6 việc để xét mình khi trong nước bị đại hạn luôn 7 năm, bao gồm: Chính sự không có chừng mực chăng? Dân chúng không có nghề nghiệp làm ăn chăng? Cung thất đồ sộ chăng? Nữ sắc quá nhiều chăng? Có tệ hối lộ và dân bị oan uổng nhiều chăng? Hay, nghe lời nịnh hót, làm mất lẽ công bằng chăng?

Tượng thờ Trịnh Sâm (bên phải), vị chúa từng khởi phục Lê Quý Đôn “để nâng đỡ người bị oan ức lâu ngày” và tranh vẽ nhà bác học Lê Quý Đôn.

Tượng thờ Trịnh Sâm (bên phải), vị chúa từng khởi phục Lê Quý Đôn “để nâng đỡ người bị oan ức lâu ngày” và tranh vẽ nhà bác học Lê Quý Đôn.

Nước ta theo đạo Nho, các vị vua cũng theo truyền thống như vậy. Như thời Lý, năm 1129, mùa xuân năm ấy mãi không mưa, Vua Lý Thần Tông đã xuống chiếu tha tội cho những người có tội trong nước. Nhà vua lúc này mới có 13 tuổi, thì việc này là theo lời bàn của Viên ngoại lang Trần Ngọc Khánh về việc kiểm tra xem trong việc hình ngục có người dân nào bị oan uổng không.

Bộ sử triều Nguyễn, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, chép lại sách “i” của Trần Ký Đằng viết rằng, khi thấy hạn hán suốt tháng 2 và tháng 3 (âm lịch) năm ấy, nhà vua đã đích thân đi đảo vũ, nhưng không linh ứng, nên bảo các quan hầu dâng kế sách. Trần Ngọc Khánh mới tiến lên nói rằng: "3 tháng xuân là mùa xuân sinh nở muôn vật, trời không mưa xuống thì sự sinh sống của các loài sao cho được thỏa thuê? Hoặc, giả hình ngục có sự oan uổng không đúng, hại đến khí hòa? “Kinh Thư” có câu: "Tiếm hằng dương nhược", nghĩa là chính lệnh của nhà vua mà sai lệch vì quá nghiêm khắc, thì điềm dữ sẽ phản ứng lại là nắng nhiều. Vậy, xin bệ hạ nghĩ lại". Nhà vua cho là phải, xuống chiếu tha các tội nhân trong nước. Lập tức sang tháng 4 có mưa ngay, nên người ta gọi Trần Ngọc Khánh là "Thần Thiện Gián", tức “ông họ Trần giỏi can gián”.

Sang triều Lê sơ, là triều đại tôn sùng đạo Nho, khi xảy ra hạn hán lúc Vua Lê Thái Tông mới lên ngôi, tháng 4 năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), thì việc đầu tiên nhà vua tiến hành vẫn là “Rước tượng Phật ở chùa Pháp Vân đến Đông Kinh để đảo vũ”. Tuy nhiên, viên quan giữ việc can ngăn là Nguyễn Thiên Hựu tâu rằng: "Xin bệ hạ tu đức, xét tù oan ức, thải bớt cung nữ, nếu mà trời còn không mưa thì chém tôi để tạ tội với thiên hạ".

Sang thời Lê trung hưng, vào đời Vua Lê Dụ Tông, mà thực chất là chúa Trịnh Cương trị nước, năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1720), cũng có “tai biến về các vì sao”. Cơ quan Tư thiên giám xin đổi niên hiệu, triều đình bèn lấy tháng 8 năm ấy làm năm Bảo Thái thứ nhất, xá 2 phần 10 thuế vụ hạ năm này; đồng thời các quan viên nếu có ai vô ý sai lầm phạm lỗi hoặc bị oan uổng chìm đắm, đều được cất nhắc bổ dụng.

Việc ban hành bộ hình luật đầu tiên ở nước ta, là bộ “Hình thư”, thời Lý cũng nhằm giúp cho người dân “tránh bị oan uổng quá đáng”. “Đại Việt Sử ký toàn thư” cho biết, đầu thời Lý, việc kiện tụng bề bộn, quan lại giữ pháp luật cứ câu nệ theo thành văn trong luật lệ, hay làm những điều quá khắc nghiệt; vì vậy có nhiều người bị oan uổng quá đáng. Do đó, năm 1042, “Vua (Lý Thái Tông) động lòng thương, mới sai viên Trung thư sửa định lại luật lệnh. Việc sửa định này phải tham bác châm chước cho thích hợp với thời thế, đặt ra từng môn, từng loại, phân ra từng điều, từng khoản, làm hẳn thành bộ Hình thư của một triều đại. Khi sách làm xong, nhà vua xuống chiếu cho ban hành, ai cũng khen là tiện lợi. Nhân đó, nhà vua cho đổi niên hiệu là Minh Đạo (nghĩa là làm sáng rõ cái đạo trị nước)”.

Cơ sở thưởng phạt các quan

Thời Trần, nhờ thành tích xử án không để ai bị oan uổng hoặc xử quá đáng, mà viên An phủ sứ Thanh Hóa là Nguyễn Trung Ngạn được bổ dụng giữ việc ở viện Thẩm Hình. Sử viết: “Trung Ngạn lập nhà Bình Doãn để xét xử ngục tụng. Những người bị can, không ai bị oan uổng hoặc bị xử quá đáng. Nhà vua tỏ ý khen ngợi”.

Việc quan giữ hình án xét xử không oan uổng, không quá đáng, được triều đình đưa vào làm tiêu chí thăng thưởng vào thời Vua Lê Thánh Tông. Sử ghi, tháng Giêng năm 1465, nhà vua sai định thể lệ thăng giáng các viên quan xét hỏi việc hình ngục trong năm viện hình. Người nào xét xử kiện tụng, không oan uổng, không quá đáng thì liệt vào một hạng; người nào bình thường, liệt vào một hạng; người kém cỏi, liệt vào một hạng. Người xét kiện không oan uổng, không quá đáng, sẽ được khen thưởng; người bình thường, được giữ chức như cũ; người kém cỏi, sẽ bổ đi giữ chức Chuyển vận, tức chức quan ở địa phương tương đương huyện lệnh.

Vua Lê Hiến Tông cũng từng có sắc dụ các nha môn xét xử hình ngục rằng: “Các nha môn nào không xét xử đúng lẽ, thì người bị oan uổng được phép cứ sự thực tâu bày đầy đủ lên triều đình, viên quan ấy sẽ bị tội theo như luật định”.

Thời Lê Dụ Tông, đã có một vụ giáng chức các vị quan lớn liên quan đến một vụ án oan. Đó là vụ việc vào mùa hạ năm 1724, khi có một người dân ở huyện Đường Hào (sau là Mỹ Hào, Hưng Yên) dính một vụ kiện, bị xử tội đồ oan, người ấy mổ bụng để kêu oan. Việc này được chúa giao xuống cho bầy tôi tham dự xét hỏi, thì quả nhiên người ấy lý thẳng. Do đó, Thượng thư Bộ Hình Trương Công Khải bị giáng cấp xuống làm Tả thị lang Bộ Lại; còn Hồ Phi Tích, Tả thị lang Bộ Lại, lúc xử lý vụ kiện giữ chức ở Ngự sử đài nhưng không biết làm cho tỏ lẽ phải, bị giáng xuống làm Hữu thị lang Bộ Lễ.

Cuối thời Vua Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Sâm đã có động thái nâng đỡ các vị quan bị oan khi trời hạn hán. Theo “Cương mục”, đó là chuyện diễn ra năm 1767, dù chúa đã cầu đảo ở lầu Kính Thiên, vẫn chưa được mưa, nên hạ lệnh cho các quan trong kinh ngoài trấn dâng tờ khải niêm phong trình bày công việc. Nguyễn Bá Lân dâng tờ khải nói: "Chính sự vua chúa, thông cảm với trời. Nay, vương thượng mới cầm quyền, nên chuộng đều khoan hậu, vậy xin: Lục dụng Lê Quý Đôn và Phan Cẩn để nâng đỡ người bị oan ức lâu ngày; rộng gia ơn về việc, chuộc tội, cứu vớt dân xiêu lưu, để dân khỏi đau khổ. Như thế, may ra có thể thu phục được lòng người và báo đáp được tội lỗi mà trời quở trách".

Trịnh Sâm cho là phải, bèn khởi phục Lê Quý Đôn giữ chức Thị thư (hàm Chánh lục phẩm), Phan Cẩn giữ chức Cấp sự trung (hàm Tòng bát phẩm). Trước đó, Lê Quý Đôn giữ nhiều chức vụ quan trọng như Học sĩ Bí thư các, Đốc đồng xứ Kinh Bắc... Ông đã dâng sớ xin thiết lập pháp chế vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa nghe, nên ông xin về hưu.

Tiếng chuông kêu oan

Các triều đình quân chủ Việt Nam thời xưa cũng luôn tạo cơ hội để người dân bị oan ức có cơ hội kêu oan. Từ thời Vua Lý Nhân Tông, năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 3 (1051), nhà vua đã cho đúc chuông lớn để ở sân rồng điện Thiên An, “cho dân hễ ai có điều gì oan ức không thông đạt được lên trên thì đánh chuông để thấu đến nhà vua”. Hay, sang thời Lê trung hưng, đời Vua Lê Hiển Tông, năm 1742, chúa Trịnh Doanh cũng cho đặt ống đồng ở cửa phủ chúa để người dân bị oan bỏ thư tố cáo.

Các sử quan triều Nguyễn viết về vị chúa Trịnh này như sau: “Doanh hăng hái lưu ý xét hỏi công việc, đặt cái ống bằng đồng ở cửa phủ, hạ lệnh cho người có việc hoặc người bị oan ức làm tờ tố cáo bỏ vào trong ống, cứ 5 ngày người có trách nhiệm đem ống ấy tiến trình. Lúc ấy, sĩ phu, dân chúng bí mật trình bày việc tham tàng và nhũng nhiễu của quan lại; nhưng khi xét nghiệm ra, phần nhiều không đúng sự thật. Doanh dần dần sinh ra chán nản”.

Vì các tố cáo phần nhiều không đúng, nên viên quan Tả chính ngôn Lê Trọng Thứ đã làm tờ khải lên chúa, nói rằng: "Bây giờ lòng người không được như đời cổ, sự yêu ghét chưa chắc đã hết thảy được công bằng. Nếu muốn phân biệt rõ người hay kẻ dở thì nên cho các quan trình bày đầy đủ bằng lời nói, rồi thử thách công việc xem có đúng với lời nói không, xét sự thật, tìm công trạng, chứ không nên mở cửa cáo tố bí mật, chỉ làm thêm lòng gian trá về việc bới móc lẫn nhau, bè đảng với nhau mà thôi". Chúa Trịnh Doanh khen ngợi lời khải của Trọng Thứ, lập tức bãi bỏ cái ống đồng.

Nhưng, đến năm 1747, chúa Trịnh Doanh lại cho đặt cái chuông và cái mõ ở ngoài cửa phủ đường, để cho ai muốn bày tỏ công việc hiện thời thì đánh chuông; ai có đều oan ức chưa được xét rõ lý lẽ thì đánh mõ tâu bày. Vị chúa này cũng định rõ thể lệ kiện tụng, về việc người đương sự kêu xin xét lại, trong đó cho phép các đương sự chưa phục tình kết quả xử án, thì đến ngày chúa ra coi chầu được đệ đơn kêu lại. Nếu tình trạng quả tai hại thì cho phép xét lại; nếu xét lại còn vẫn chưa tỏ rõ được lý lẽ, thì cho phép người đương sự đánh mõ tâu bày. Đơn kiện nào khiếu tố vượt thứ tự, sẽ bị bác bỏ.

Lệ gõ chuông kêu oan kéo dài đến cuối thời Lê. Sách “Cương mục” cho biết, vào năm Cảnh Hưng thứ 37 (1776, cuối đời Vua Lê Hiển Tông): “Thể lệ cũ ở công đường chính phủ treo một quả chuông, phàm người nào có tình trạng u ẩn hoặc có điều oan ức mà muốn giãi bày, thì được phép làm giấy tờ niêm phong cẩn mật, rồi đánh chuông dâng nộp, viên quan trong Lại phiên nhận phong thư ấy lập tức dâng nộp để chúa rõ. Gần đây, công việc trình bày phần nhiều phù phiếm càn rỡ, không thiết thực, mà viên quan có trách nhiệm cũng để chậm trễ hoặc nhãng quên đi, nên dầu có người bị oan uổng uất ức cũng ít khi được tự đề đạt lên trên được. Vì thế, nay bàn định đổi hẳn tình tệ ấy, nếu người nào để chậm trễ sẽ có tội”.

Lê Tiên Long

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/giai-oan-uc-cua-dan-i772738/
Zalo