Giấc mơ mang tên ông ngoại
Con đường làng ngoằn ngoèo như dải lụa, uốn mình qua rặng tre già rì rào trong gió. Mỗi khi trăng lên, bóng người đi in dài xuống mặt đất lặng như tờ, khiến tôi luôn tưởng như mình đang bước trong một giấc mơ - giấc mơ tuổi thơ gắn liền với căn nhà ba gian nền đất, nơi ông ngoại từng sống.

Ảnh minh họa
Tôi còn nhớ rõ cái cảm giác lạ lẫm mỗi lần bố mẹ đưa về quê ngoại, nhất là vào những ngày giáp Tết. Không khí khi đó lạnh và trong đến lạ. Những hạt sương đọng trên tàu lá chuối hai bên đường, lấp lánh như ngọc khi có ánh trăng chiếu xuống.
Hồi nhỏ, tôi sợ bóng tối, sợ tiếng côn trùng rúc rích nhưng chỉ cần thấy ánh đèn dầu từ nhà ông le lói phía xa, tim tôi lại yên ổn.
Nhà ông ngoại nghèo. Là kiểu nghèo cũ kỹ nhưng sạch sẽ và ấm cúng. Bên cạnh bể nước mưa luôn có một cây trứng gà. Cây không lớn nhưng mỗi tháng 10 lại rụng đầy hoa trắng. Tôi từng thích thú nhặt từng cánh hoa ấy, ép vào trang vở học trò. Đến Tết, cây lại rực lên màu vàng ấm như mặt trời lúc hoàng hôn. Tôi từng hỏi ông:
- Sao nó lại chín đúng Tết hả ông?
Ông chỉ cười, rít hơi thuốc lào, phả khói ra chậm rãi:
- Tại cây nó nhớ người, nó biết người ta về ăn Tết...
Ông là công nhân gốm sứ Bát Tràng hồi còn trẻ. Mỗi khi rảnh, ông lại kể chuyện nung lò, chuyện những lần bốc gốm bằng tay trần, rồi cả chuyện ông bị bỏng tay suýt nữa phải nghỉ việc. Giọng ông kể trầm, mộc và có phần tự hào. Những câu chuyện ấy, với tôi, còn quý hơn mọi món đồ chơi thành phố.
Dù nghèo, ông thương con, thương cháu hết mực. Mỗi lần các dì, các bác về chơi, ông đều dúi cho cái nọ cái kia. Khi thì ít khoai, khi thì mấy cái bát nhỏ ông xin từ lò nung đem về. Dì Giang ngày trước yêu một anh chàng ở xa, nghèo nhưng thật thà. Ngoại cấm đoán dữ lắm. Ông nói:
- Con gái phải lấy chồng gần, ốm đau còn có người thân lo.
Dì không chịu. Đòi đốt quần áo, đốt cả chứng minh thư, nói là không cần gì hết, chỉ cần người mình thương. Cuối cùng ông đành thở dài:
- Con đi thì cha không giữ nhưng cha thương và lo cho con không thể ngơi nghỉ.
Nhiều năm sau, dì vẫn nhắc: Ông già khó tính nhưng thương con như đứt ruột.
Tôi là đứa cháu ngoại đầu tiên. Hồi tôi 5-7 tuổi, có lần về quê chơi, bị cảm nặng, sốt cao rồi ngất lịm. Cả nhà nháo nhào, không có trạm y tế gần, chỉ biết đắp khăn lạnh và cho tôi uống thuốc hạ sốt. Đêm đó, ông lặng lẽ ra sau nhà, mở nắp ổ gà đang ấp, thò tay vào lấy một quả trứng. Ông bảo:
- Trứng này ông để dành cho nó đấy. Ấp nở thì quý, mà cháu ốm thì phải tẩm bổ.
Ông luộc quả trứng, bóc vỏ, rồi lấy thìa nhỏ đút từng miếng vào miệng tôi. Vị trứng lẫn nước mắt ông, mằn mặn mà ấm. Đến giờ, tôi chưa bao giờ ăn quả trứng nào ngon hơn thế.
Nhưng rồi ông bệnh.
Căn nhà ba gian vẫn vậy, chỉ có ông là yếu đi, nằm mãi trong gian buồng ẩm ướt, ánh sáng không đủ len qua tấm cửa gỗ cũ kỹ. Ông ho nhiều, người gầy rộc, lưng còng như bị gió quật. Các con chạy vạy khắp nơi nhưng chẳng ai đủ tiền đưa ông lên viện. Bác sĩ trạm xá bảo:
- Ông cụ yếu rồi, cố chăm cho ông ăn uống đủ chất...
Ông chẳng muốn ăn gì. Chỉ lặng lẽ bảo:
- Tao thèm quả cam...
Mùa ấy cam đắt. Mẹ tôi phải nhờ người quen mua tận chợ Long Biên, mua được vài quả nhỏ. Trời mưa phùn, đất đường trơn trượt, mẹ cầm cam đạp xe ra với ông. Đến nơi chân tay lạnh buốt. Bóc vội một quả, mẹ đưa cho ông.
Ông chỉ ăn được vài múi.
Rồi ông đi. Yên lặng như cái cách ông sống cả đời. Hôm đó, trăng mờ sau rặng tre. Gió lay động cành cây trứng gà, một vài bông hoa trắng rụng xuống, như tiễn đưa ông về với đất.
Con trai út của ông - cậu tôi - khi ấy mới học lớp 8. Cậu khóc cạn nước mắt, ôm lấy tấm chăn cũ ông hay đắp, nức nở như một đứa trẻ mất cả thế giới. Cậu bảo:
- Mai này con lớn, có tiền, nhất định con sẽ mua cho ông cái giường mới...
Nhưng ông không đợi được.
Nhiều năm sau, các con ông đều khấm khá hơn. Có người đi nước ngoài, người thành chủ xưởng, người có nhà ở thành phố. Nhưng căn nhà ba gian thì vẫn còn đó, in hằn trong ký ức người ở lại. Mỗi dịp giỗ ông, mọi người lại tụ về, mang theo mâm cao cỗ đầy, bày biện đủ món. Dẫu vậy, sự trống trải vẫn lặng thầm dội về từng cơn. Như một thói quen, lần nào giỗ ngoại, mẹ cũng ngồi lặng thinh trước bàn thờ, nhìn tấm ảnh chân dung vẽ bằng chì năm ấy - bức ảnh duy nhất còn lại vì ông không bao giờ chụp ảnh.
Mẹ tiếc.
Tiếc vì không kịp chăm ông lúc cuối đời. Tiếc vì ngày xưa nghèo quá, mà ông chẳng bao giờ kêu. Tiếc vì khi đã no đủ, ông chỉ còn hiện diện trong một khung ảnh, giữa làn khói nhang se sắt.
Còn tôi, mỗi lần về làng, đi trên con đường cũ, vẫn thấy bóng trăng in dưới chân mình. Như có ai đó đang dõi theo. Như ông vẫn còn đó, trong gió tre xào xạc, trong bông hoa trứng gà tháng mười, và trong lòng cháu, đứa cháu năm xưa từng được ông cho ăn quả trứng nóng hổi bằng đôi tay gầy guộc, đầy yêu thương.