Fed vừa tái khởi động chu kỳ giảm lãi suất, nhưng làm sao các quan chức biết khi nên dừng?

Để biết khi nào nên ngừng giảm lãi suất, Fed cần tìm ra mức lãi suất trung lập. Tuy nhiên, đây không phải bài toán dễ.

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell. (Ảnh: Gwen P/Shutterstock).

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell. (Ảnh: Gwen P/Shutterstock).

Dư địa giảm lãi suất còn bao nhiêu?

Sau gần một năm “án binh bất động”, các quan chức Fed đã nhất trí giảm lãi suất 25 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 9, qua đó đưa chi phí đi vay liên ngân hàng xuống phạm vi mục tiêu 4 - 4,25%.

Các quan chức còn báo hiệu họ sẽ hạ lãi suất thêm hai lần nữa trong năm nay. Dễ hình dung, ngân hàng trung ương Mỹ đã chính thức khởi động lại chu kỳ nới lỏng chính sách tiền tệ.

Chu kỳ cắt giảm lãi suất nào cũng phải có điểm dừng, nhưng làm sao các quan chức Fed biết khi nào nên dừng. Đây là một câu hỏi mà các nhà hoạch định chính sách đang tranh luận.

Về cơ bản, Fed sẽ muốn hướng đến một mức lãi suất trung lập - tức mức lãi suất không làm nóng nền kinh tế bằng các khoản vay giá rẻ nhưng cũng không kìm hãm nền kinh tế bằng cách khiến chi phí đi vay trở nên đắt đỏ. Song, xác định con số đó không dễ dàng.

Trong một lưu ý, nhà kinh tế trưởng Beth Ann Bovino của U.S. Bank từng nhận xét: “Đó là mức lãi suất lý tưởng. Nó không quá nóng, không quá lạnh, nó vừa phải. Vấn đề là không ai biết bao nhiêu. Tất cả chỉ là ước tính”.

Tháng trước, Chủ tịch Fed Jerome Powell phát tín hiệu ngân hàng trung ương Mỹ đang hướng tới “lập trường chính sách trung lập hơn”.

Tuy nhiên, các đồng nghiệp của ông có quan điểm khác nhau về sự trung lập đó. Dự báo mới nhất cho thấy họ kỳ vọng lãi suất trung lập dài hạn sẽ nằm trong khoảng từ 2,6% đến 3,9%.

Nếu lãi suất trung lập nằm ở mức cao hơn trong phạm vi kể trên, Fed sẽ không có nhiều dư địa để cắt giảm lãi suất trong một vài năm tới. Như đã đề cập, lãi suất quỹ liên bang hiện đã nằm trong khoảng mục tiêu 4 - 4,25%.

Ngược lại, nếu lãi suất trung lập tiến sát con số 2,6%, Fed sẽ có thêm dư địa để cắt giảm lãi suất. Trong kịch bản lý tưởng nhất là Fed hạ lãi suất về sát mốc 2,6% và mỗi lần hạ 25 điểm cơ bản, họ sẽ có khoảng 6 đợt giảm nữa.

Giống như một chiếc xe hơi đang tiến đến biển báo dừng, mục tiêu của Fed là tránh “một cú dừng đột ngột, giật cục”, ông Luke Tilley, nhà kinh tế trưởng của Wilmington Trust, mô tả.

Tuy vậy, cần ghi nhớ rằng tìm kiếm sự cân bằng đó không thực sự dễ dàng, đặc biệt là trong một môi trường kinh tế đầy bất ổn như hiện tại.

Khi lãi suất trung lập còn thấp

Trong nhiều năm trước đại dịch COVID-19, nền kinh tế thế giới vẫn đang bận tâm đến đà giảm dần của lãi suất trung lập.

Lãi suất thấp có lợi cho người tiêu dùng và doanh nghiệp vì các khoản vay rẻ hơn, nhưng chúng cũng báo hiệu những điểm yếu tiềm ẩn về mặt cấu trúc và sự kém năng động của nền kinh tế.

“Khi triển vọng tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, lãi suất trung lập có xu hướng đi lên”, nhà kinh tế Jennifer McKeown của Capital Economics lưu ý trong một hội thảo gần đây. “Khi lượng tiền tiết kiệm tăng cao hoặc nhu cầu đầu tư suy yếu, lãi suất trung lập thường đi xuống”.

Nhân khẩu học là một lý do có thể giải thích cho việc lãi suất trung lập duy trì ở mức thấp hơn trong giai đoạn trước đại dịch.

Khi đó, thế hệ Baby Boomer (tức những người sinh ra trong giai đoạn 1946 - 1964) sắp bước vào tuổi nghỉ hưu và thường đầu tư vào các tài sản ít rủi ro hơn như trái phiếu chính phủ. Tuổi thọ cao hơn đồng nghĩa con người cần tiết kiệm nhiều tiền hơn.

Mặt khác, tỷ lệ sinh ở các nền kinh tế lớn suy giảm, khiến lực lượng lao động thu hẹp hơn và đè nặng lên tiềm năng tăng trưởng. Và vấn đề của lạm phát lúc này không phải là quá cao, mà là quá thấp.

Một phân tích gần đây của Fed chi nhánh San Francisco cũng kết luận nhân khẩu học và các xu hướng toàn cầu khác là nguyên nhân chính khiến lãi suất sụt giảm từ năm 1990 đến 2019.

Điều gì đã thay đổi kể từ đại dịch COVID-19?

Giống như giới chức Fed, các nhà đầu tư và giới chuyên gia đa phần đều đồng tình rằng lãi suất trung lập đang đi lên. Việc tìm ra nguyên nhân đằng sau đà tăng tiềm tàng này cũng là một thách thức.

Tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) có thể là một yếu tố quan trọng, bởi một số nhà kinh tế cho rằng công nghệ này có thể giúp nền kinh tế trở nên năng suất hơn và nâng cao tăng trưởng GDP.

Trong một nghiên cứu của riêng mình, bà McKeown của Capital Economics cho biết có một dấu hiệu ban đầu cho thấy “một đợt bùng nổ kinh tế do AI thúc đẩy sắp bắt đầu”.

Song, các chính sách nhập cư của Tổng thống Donald Trump có thể làm giảm lãi suất trung lập, vì lực lượng lao động nhỏ hơn có khả năng sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế.

“Sự kìm hãm này sẽ dịu bớt khi các chính quyền tiếp theo có lập trường mềm mỏng hơn. Nhưng hiện tại, tác động tiêu cực từ chính sách nhập cư sẽ làm suy yếu tác động tích cực từ dòng vốn đầu tư mạnh mẽ vào AI”, vị chuyên gia viết.

Một số yếu tố khác có thể cũng đang kéo lãi suất trung lập đi lên. Thế hệ Baby Boomer - hiện đã nghỉ hưu - đang chi tiêu trở lại thay vì tiết kiệm tiền như trong giai đoạn trước.

Chính phủ cũng chi tiêu nhiều hơn và buộc phải duy trì mức thâm hụt ngân sách cao hơn để tài trợ cho các chương trình hưu trí cũng như quốc phòng.

Lợi suất trái phiếu chính phủ cũng đi lên do các nhà đầu tư lo sợ chính phủ sẽ gặp khó khăn khi trả nợ trong tương lai và lạm phát làm xói mòn lợi nhuận của họ. Và điều này sẽ càng đè nặng lên tình hình tài chính của chính phủ, bởi khoản chi để trả lãi vay sẽ ngày càng đi lên.

Yên Khê

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/fed-vua-tai-khoi-dong-chu-ky-giam-lai-suat-nhung-lam-sao-cac-quan-chuc-biet-khi-nen-dung.html