FDI toàn cầu lao dốc, vì sao Việt Nam vẫn duy trì phong độ?

Bất chấp xu hướng sụt giảm dòng vốn toàn cầu, Việt Nam vẫn ghi nhận mức tăng mạnh với hơn 31,5 tỷ USD vốn đăng ký trong 10 tháng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này cho thấy niềm tin bền vững của nhà đầu tư quốc tế vào môi trường kinh tế ổn định và sức hấp dẫn của Việt Nam.

Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/10 đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam tính đến 31/10 ước đạt 21,3 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 10 tháng trong 5 năm qua.

Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam 10 tháng các năm 2021-2025, đơn vị: tỷ USD. (Nguồn: Cục Thống kê).

Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam 10 tháng các năm 2021-2025, đơn vị: tỷ USD. (Nguồn: Cục Thống kê).

Sự tin tưởng của các nhà đầu tư

Nhìn nhận kết quả này, TS. Đặng Thảo Quyên, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam cho rằng trong bối cảnh toàn cầu còn nhiều bất ổn, đặc biệt là căng thẳng địa chính trị và xu hướng bảo hộ thương mại, kết quả này của Việt Nam là rất đáng ghi nhận.

Dẫn số liệu của Báo cáo Đầu tư Thế giới 2025 của UNCTAD, bà Quyên cho biết dòng vốn FDI toàn cầu đã giảm 11% trong năm 2024, nhưng Việt Nam lại ghi nhận mức tăng trưởng cao, duy trì cho tới những tháng cuối năm 2025, cho thấy sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam.

Sự gia tăng này được hỗ trợ bởi các yếu tố như vị trí chiến lược của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do (FTA) như CPTPP, và môi trường chính trị ổn định.

Về cơ cấu dòng vốn, có sự dịch chuyển rõ nét từ thu hút mới sang mở rộng hiện hữu. Cụ thể, vốn đăng ký mới giảm 7,6%, nhưng vốn điều chỉnh tăng mạnh và góp vốn mua cổ phần tăng 45%. Điều này phản ánh sự thận trọng của nhà đầu tư mới trước các biến động toàn cầu, đồng thời khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư hiện hữu vào hiệu quả vận hành và tiềm năng thị trường Việt Nam. Đây là một chỉ báo quan trọng về chất lượng môi trường đầu tư, không chỉ thu hút mà còn giữ chân được nhà đầu tư.

Về ngành nghề, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất cho thấy Việt Nam vẫn là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đáng chú ý, các địa phương ngoài vùng kinh tế trọng điểm như Gia Lai, Ninh Bình, Nghệ An bắt đầu ghi nhận các dự án quy mô lớn. Điều này cho thấy hiệu quả của chính sách phân bổ đầu tư theo vùng, cũng như năng lực cải thiện hạ tầng và thể chế ở cấp địa phương.

Về triển vọng, TS. Đặng Thảo Quyên cho rằng dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng trong những tháng cuối năm, nhưng có thể phân hóa rõ hơn về chất lượng và lĩnh vực đầu tư. Bởi Việt Nam đang hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao và năng lượng tái tạo.

“Việc các tập đoàn đa quốc gia tái cấu trúc chuỗi cung ứng để giảm phụ thuộc vào Trung Quốc đã tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành điểm đến thay thế chiến lược”, bà Quyền tin tưởng.

TS. Đặng Thảo Quyên, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam. (Ảnh: NVCC)

TS. Đặng Thảo Quyên, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam. (Ảnh: NVCC)

Còn theo ông Bruno Jaspaert, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), dù chịu ảnh hưởng từ những biến động này, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Việt Nam vẫn ở mức rất thấp, chỉ 3% doanh nghiệp đang cân nhắc điều chỉnh hoạt động ra ngoài Việt Nam, trong khi 3% khác lại xem xét mở rộng hoặc điều chỉnh hoạt động ngay trong nước. Điều này một lần nữa khẳng định Việt Nam như một điểm đến sản xuất và đầu tư đáng tin cậy, bền vững trong chuỗi giá trị khu vực.

Các yếu tố như tuân thủ pháp lý, biến động thị trường và chiến lược tìm nguồn cung có phần “phức tạp hơn”, nhưng chưa đủ mạnh để làm lung lay cam kết dài hạn của doanh nghiệp châu Âu đối với Việt Nam. Đáng chú ý, sự cải thiện mạnh mẽ trong tâm lý doanh nghiệp khi 80% người tham gia khảo sát bày tỏ lạc quan về triển vọng trong 5 năm tới, và 76% cho biết họ sẽ giới thiệu Việt Nam như một điểm đến đầu tư.

“Sức hút của Việt Nam vẫn giữ vững bất chấp các yếu tố ngoại cảnh thể hiện niềm tin ngày càng tăng của nhà đầu tư quốc tế và vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên bản đồ đầu tư toàn cầu”, Chủ tịch EuroCham nêu rõ.

Tinh thần lạc quan cần được neo vững

Tuy vậy, EuroCham lưu ý trong bối cảnh thế giới ngày càng biến động và khó lường, tinh thần lạc quan cần được neo vững trên nền tảng của cải cách linh hoạt và khả năng thích ứng bền bỉ. Các doanh nghiệp nhấn mạnh rằng năng lực cạnh tranh dài hạn của Việt Nam phụ thuộc vào tính nhất quán và minh bạch của khung pháp lý giữa các địa phương, cũng như hiệu quả của bộ máy hành chính.

Trong đó, hiệu quả hành chính vẫn là một trong những thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam phải đối mặt, với 65% doanh nghiệp cho rằng các thủ tục phức tạp đang cản trở hoạt động kinh doanh.

Các quy trình liên quan đến thuế, đặc biệt là hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) vẫn gây nhiều khó khăn, trong khi cách hiểu và áp dụng quy định về giấy phép lao động không thống nhất giữa các địa phương tiếp tục tạo ra những rào cản trong vận hành.

“Tăng trưởng và doanh thu của ngày hôm nay chưa thể bảo đảm thành công cho ngày mai, trừ khi doanh nghiệp và Chính phủ cùng chung tay chuẩn bị cho tương lai. Đây chính là điểm tương đồng giữa EU và Việt Nam – cả hai đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hóa, củng cố và nâng tầm các mối quan hệ đối tác để cùng phát triển”, Chủ tịch EuroCham khẳng định.

Ông Bruno Jaspaert, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam. (Nguồn: VGP)

Ông Bruno Jaspaert, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam. (Nguồn: VGP)

Trong khi đó, TS. Đặng Thảo Quyên, cho rằng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu do OECD khởi xướng và có hiệu lực từ 1/1/2024 đang đặt ra thách thức mới. Theo quy định, các doanh nghiệp FDI sẽ phải chịu mức thuế thu nhập tối thiểu 15%. Điều này làm giảm sức hấp dẫn của các ưu đãi thuế truyền thống vốn là một trong những công cụ chính sách thu hút FDI của Việt Nam.

Nếu không có các biện pháp hỗ trợ thay thế, như Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia hay ưu đãi phi thuế (hạ tầng, nhân lực, thủ tục hành chính), Việt Nam có thể mất lợi thế cạnh tranh trong mắt các nhà đầu tư lớn.

Ngoài ra, các chính sách thuế mới của Mỹ, đặc biệt liên quan đến kiểm soát chuyển giá và thuế đối ứng, cũng có thể ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ, các công ty đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ hoặc tập trung vào thị trường Mỹ.

Dù Việt Nam đã có những bước tiến trong đàm phán song phương, nhưng sự bất định chính sách vẫn là yếu tố khiến một số nhà đầu tư thận trọng hơn trong giải ngân vốn quy mô lớn.

Về giải pháp, bà Quyên cho rằng cần một cách tiếp cận toàn diện, dựa trên những trụ cột như thể chế minh bạch, hạ tầng hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao.

“Bằng cách củng cố nội lực, cải cách thể chế và nâng cao chất lượng dịch vụ đầu tư, Việt Nam có thể duy trì và nâng cao vị thế của mình là một điểm đến đầu tư hấp dẫn, ngay cả trong bối cảnh thế giới còn nhiều bất ổn, và tiếp tục thu hút các dòng vốn FDI chất lượng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững", bà Quyên nhấn mạnh.

Ngọc Bảo

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/fdi-toan-cau-lao-doc-vi-sao-viet-nam-van-duy-tri-phong-do.html