Đừng xây chợ khi chưa biết ai được bán hàng
Việt Nam đang bàn nhiều về thị trường carbon, về việc sàn giao dịch sẽ hoạt động từ 2028, về hạn ngạch phát thải, về hệ thống mua bán, bù trừ phát thải... Tuy nhiên, một câu hỏi nền tảng hiện vẫn chưa được trả lời. Đó là, ai là người có quyền bán tín chỉ carbon? Nếu câu hỏi này không được làm rõ thì các thiết kế thị trường khó có thể thành hiện thực vì ...'xây chợ' mà chưa biết ai được bày hàng ra bán.
Khái niệm này trên thị trường carbon quốc tế được gọi là “quyền carbon” (carbon rights). Các quốc gia tham gia thị trường đều xử lý sớm chuyện này. Indonesia quy định rành mạch: rừng nhà nước, rừng cộng đồng, rừng tư nhân, mỗi loại có chủ thể carbon tương ứng, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Úc mạnh tay hơn: tách quyền đất khỏi quyền carbon. Theo đó, chủ đất vẫn giữ đất, nhà đầu tư nắm quyền carbon. Nhờ vậy tín chỉ của Úc lọt nhóm uy tín nhất thế giới.
Tại Việt Nam, quyền carbon vẫn chưa được xác lập trong một văn bản pháp lý thống nhất. Rừng tự nhiên do Nhà nước quản lý nhưng tín chỉ carbon từ rừng tự nhiên thuộc về ai thì chưa rõ? Rừng trồng có vốn nhà nước và vốn người dân thì chia thế nào? Rừng ngập mặn ven biển là tài sản của tỉnh, của vườn quốc gia hay của khu bảo tồn hay tài sản quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý? Rừng trồng liên kết giữa các lâm trường, doanh nghiệp và hộ dân thì ai nắm quyền carbon? Những câu hỏi ấy cho đến nay chưa được đưa vào một bộ khung pháp lý đủ rõ để thị trường vận hành.
Khi quyền carbon chưa rõ, rủi ro đầu tiên là không huy động được vốn đầu tư. Nhà đầu tư quốc tế sẽ không rót vốn nếu không biết họ sở hữu cái gì. Chưa kể khâu MRV (đo đạc - báo cáo - thẩm tra) còn phân tán, mỗi tỉnh dùng một phương pháp; baseline quốc gia chưa có (baseline là mức phát thải hoặc mức hấp thụ carbon “gốc” được xác định trước khi có dự án); quy trình cấp thư chấp nhận dự án (gọi là LoA cho Điều 6) vẫn trong giai đoạn “nghiên cứu”. Kết quả là tín chỉ carbon từ rừng Việt Nam khó đáp ứng cho các tập đoàn toàn cầu đang đổ đi tìm để đầu tư, tất cả chỉ là... tiềm năng trên giấy, trong hội thảo.
Quyền carbon mù mờ cũng khiến chính quyền các tỉnh khó phê duyệt dự án; doanh nghiệp không biết phải xin phép ai; cộng đồng không biết phần mình hưởng bao nhiêu; Nhà nước không xác định được phần trách nhiệm và phần lợi ích. Thời gian thẩm định kéo dài 12 - 24 tháng, thực tế có dự án dừng giữa chừng vì bị yêu cầu “rà soát lại chủ thể carbon”.
Định nghĩa quyền carbon trong luật là điều mà doanh nghiệp trồng rừng, chủ rừng và các nhà đầu từ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế đang cần. Nhà chức trách cần tách bạch rừng tự nhiên, rừng trồng, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; phân tách quyền đất - quyền carbon; tách quyền quản lý - quyền giao dịch. Đây là điều kiện tiên quyết để tư nhân, các quỹ đầu tư tham gia.
Kế đến là chuẩn hóa khâu MRV quốc gia. Không thể để mỗi tỉnh làm mỗi kiểu mà cần MRV phải thống nhất, gắn sử dụng dữ liệu vệ tinh, công bố minh bạch. Đặc biệt là quy trình cấp thư chấp nhận LoA Điều 6 của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Không có LoA, tín chỉ carbon của dự án chỉ loanh quanh trong nước, bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu giá cao.
Thị trường carbon chỉ có giá trị ở cả khâu giao dịch và khâu đầu tư khi nhà đầu tư, khách hàng biết rõ ai là chủ của carbon. Nếu không, sàn giao dịch chỉ là cái “chợ” đẹp nhưng… không có hàng thật sự để bán. Việt Nam có tài nguyên, có tiềm năng, nhất là rừng tự nhiên, rừng ngập mặn nhưng tiềm năng chỉ thành giá trị khi quyền carbon được viết rõ ràng, không mập mờ, không chia nhỏ, không để mỗi tỉnh hiểu một kiểu.































