Đừng bắt chị bán phở, hủ tiếu phải có... bằng cấp nấu ăn
Mục tiêu của cải cách hay cắt giảm điều kiện kinh doanh không phải là đưa số lượng điều kiện kinh doanh về bằng '0' mà là chỉ giữ lại cái gì thực sự cần thiết và có mục tiêu quản lý rõ ràng.
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và chỉ đạo của Chính phủ yêu cầu cắt giảm 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính (TTHC), 30% chi phí tuân thủ pháp luật và 30% điều kiện kinh doanh (ĐKKD)... trong năm 2025.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm trao đổi với Pháp Luật TP.HCM khẳng định: “Mục tiêu của việc cắt giảm 30% ĐKKD, 30% TTHC, 30% thời gian và chi phí thực hiện các TTHC cho người dân và doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc giảm phiền hà, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc mà còn hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi, ít rủi ro và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững”.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm- Ảnh: C.L
Cơ bản xóa bỏ sự tùy ý của Bộ, ngành... ban hành ĐKKD
.Phóng viên: Thưa thứ trưởng, từ trước tới nay, chúng ta đã trải qua rất nhiều lần cắt giảm, đơn giản hóa ĐKKD. Ông đánh giá ra sao về những kết quả đạt được?
+ Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm: Những kết quả chúng ta đã đạt được qua các lần sửa đổi, bổ sung các luật về đầu tư – kinh doanh có thể kể đến là: chúng ta đã tập hợp và công khai hóa các danh mục “loại trừ” về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện giúp tăng tính minh bạch hóa, bảo vệ quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.
Đồng thời, chúng ta cũng đã cơ bản xóa bỏ sự tùy ý của các Bộ, ngành và UBND ban hành ĐKKD bởi ĐKKD chỉ được quy định từ cấp Nghị định trở lên. Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn cũng công khai hóa danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường với nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn vừa qua, hàng chục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và nhiều điều kiện đầu tư kinh doanh đã được bãi bỏ. Điều này góp phần lớn vào xóa bỏ rào cản đầu tư, kinh doanh và hiện thực hóa yêu cầu về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp trong Hiến pháp.
Bản chất cải cách điều kiện kinh doanh là thay đổi tư duy và phương thức quản lý hướng đến cách thức quản lý nhà nước hiệu quả nhất, ít gây phiền hà cho doanh nghiệp nhất.
. Nhưng như ông biết, thời gian qua, khi Nghị quyết 66, 68 của Bộ Chính trị được thể chế hóa, cộng đồng doanh nghiệp, chuyên gia vẫn kêu ca rằng ĐKKD còn rất nhiều và các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện dường như vẫn nhiều đang gây ra hệ lụy cho nền kinh tế
+ Mặc dù đã có những nỗ lực nhất định trong thời gian qua về cắt giảm ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và ĐKKD, nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng. Thực tế hệ thống quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh hiện hành vẫn còn nặng nề, phức tạp và thể hiện dưới các hình thức khác nhau; và do đó còn rất nhiều dư địa để tiếp tục cải thiện.
Nhiều ĐKKD không hợp lý, không cần thiết đang gây ra hệ lụy cho nền kinh tế, như: làm giảm năng lực cạnh tranh, gia tăng chi phí kinh doanh và giảm năng suất, giảm động lực đổi mới sáng tạo, giảm niềm tin, cản trở mô hình kinh doanh mới, tăng mức độ rủi ro trong kinh doanh và tạo dư địa cho những nhiễu và chi phí không chính thức.
Cũng chính vì vậy mà Trung ương, Tổng Bí thư, Thủ tướng… đều yêu cầu tiếp tục cắt giảm 30% ĐKKD, TTHC và đồng thời giảm được 30% thời gian, chi phí cho doanh nghiệp, người dân.
Áp dụng “nguyên tắc mặt trời lặn" trong kiểm soát chất lượng
. Như vậy có thể thấy rằng: mục tiêu quản lý bằng ĐKKD dường như không chỉ nằm ở việc cắt giảm các ĐKKD không còn cần thiết?
+ Chắc chắn một điều: Mục tiêu của cải cách hay cắt giảm ĐKKD không phải là đưa số lượng ĐKKD về bằng "0" mà là chỉ giữ lại cái gì thực sự cần thiết và có mục tiêu quản lý rõ ràng. Như vậy, vẫn có những ĐKKD có thể gây ra gánh nặng tuân thủ cho doanh nghiệp.
Chẳng hạn nếu quy định người tiếp xúc trực tiếp với đồ ăn phải không có bệnh truyền nhiễm là cần thiết thì Nhà nước vẫn phải quy định vì có mục tiêu rõ ràng về bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Nhưng nếu ta đặt các ĐKKD như người bán phở phải có bằng cấp nấu ăn, kinh nghiệm làm việc... sẽ tạo thêm nhiều gánh nặng phi lý cho doanh nghiệp. Những ĐKKD như vậy không cần thiết và phải cắt giảm, đơn giản hóa.
. Nhiệm kỳ trước, khi công cuộc cắt giảm, đơn giản hóa ĐKKD được tiến hành, có vị Bộ trưởng đã khẳng định: cắt giảm, đơn giản hóa ĐKKD được coi là công việc thường xuyên, không phải là một cuộc phiêu lưu chính trị.
+ Thực ra, mục tiêu chính của việc này là đưa ĐKKD về đúng chức năng của nó. Phải xác định ĐKKD như là “barie” tối thiểu để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Một ĐKKD có thể cần thiết trong một hoàn cảnh trước đây nhưng có thể không còn cần thiết trong bối cảnh hiện tại.
Do đó, việc thường xuyên rà soát, xem xét và hoàn thiện quy định về ĐKKD là nhiệm vụ quản lý nhà nước và đòi hỏi phải được làm thường xuyên. Nhiều quốc gia thậm chí còn áp dụng “nguyên tắc mặt trời lặn" trong kiểm soát chất lượng quy định. Nghĩa là một số quy định chỉ có hiệu lực 5 năm hoặc 3 năm; trước hoặc sau đó phải được rà soát, đánh giá sự cần thiết, sự phù hợp để tiếp tục ban hành; nếu không thì đương nhiên hết hiệu lực.
. Tôi hiểu, vấn đề là ĐKKD có cần thiết không, phương thức của nó có hợp lý không và quy trình của nó có minh bạch không?
+ Ở đây có 2 vấn đề liên quan đến chất lượng quy định về ĐKKD. Đầu tiên như đã bàn ở phần trên là sự cần thiết của quy định về ĐKKD. Yêu cầu này thì cũng đã được thể chế trong hệ thống pháp luật nước ta. Tuy nhiên, việc quan trọng nhất vẫn là thực hiện các ĐKKD, thủ tục minh bạch. Khi cần thiết quy định một ĐKKD, thủ tục nào đó thì cách thức triển khai, thực hiện phải minh bạch. Có nghĩa là trình tự, thủ tục, cách thức để đáp ứng điều kiện phải rõ ràng, có thể hiểu được, không mập mờ, không có nhiều cách hiểu.
Ví dụ, nếu quy định cửa hàng phải có địa điểm ổn định; có địa chỉ, biển hiệu rõ ràng; đủ trang thiết bị phục vụ ăn uống,... thì rõ ràng đây là các điều kiện không minh bạch. Đáng mừng là trong nhiều năm qua, những ĐKKD, những thủ tục kiểu này đã từng bước được giảm đi qua quá trình lập pháp, lập quy.

Bản chất của điều kiện kinh doanh là đặt ra yêu cầu, tiêu chuẩn tối thiểu để đảm bảo an toàn cho quá trình sản xuất kinh doanh, cho sản phẩm, dịch vụ. Ảnh: QH
Điều kiện kinh doanh sẽ minh bạch và thông minh hơn
. Như thế, có thể hiểu rằng chúng ta phải thay đổi triết lý về ĐKKD, TTHC thành “cần thiết – hợp lý – minh bạch”?
+ Có chuyên gia đã nói rằng: ĐKKD ngoài những yêu cầu “cần thiết - hợp lý - minh bạch” thì cần phải “thông minh” nữa. Tôi tán thành quan điểm này.
Bản chất của các ĐKKD là đặt ra yêu cầu, tiêu chuẩn tối thiểu để đảm bảo an toàn cho quá trình sản xuất kinh doanh, cho sản phẩm, dịch vụ và thông qua đó bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Quy định như vậy thường dựa trên giả sử là nếu nhà nước không quy định thì doanh nghiệp sẽ cung cấp sản phẩm, dịch vụ kém chất lượng và gây tác động đến an ninh và an toàn xã hội.
Nhưng thực tế không phải lúc nào cũng như vậy và chỉ đúng trong một số hoàn cảnh. Trong một thị trường cạnh tranh thì doanh nghiệp luôn có xu hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và họ thậm chí đạt tiêu chuẩn, điều kiện cao hơn so với quy định và sẽ làm vậy ngay cả khi không có luật. Trong trường hợp này, nếu áp dụng cứng nhắc quy định của pháp luật thì còn gây cản trở cho doanh nghiệp hoặc thúc đẩy doanh nghiệp cạnh tranh đi xuống – xu hướng chỉ tuân thủ pháp luật.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy để thúc đẩy tuân thủ pháp luật thì thường áp dụng nguyên tắc, như là nếu doanh nghiệp đã áp dụng một bộ quy tắc hoặc nguyên tắc thực hành sản xuất tốt, phổ biến được thừa nhận rộng rãi thì có thể miễn áp dụng quy định ĐKKD có liên quan. Trong trường hợp này cả nhà nước, người tiêu dùng và doanh nghiệp cùng có lợi. Để nâng cao chất lượng ĐKKD cần bổ sung thêm nguyên tắc thông minh này.
Như vậy, trước mắt một mặt cần tiếp tục nỗ lực cắt giảm ĐKKD, TTHC như chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, về lâu dài phải hướng đến xây dựng một hệ thống quy định về ĐKKD, TTHC minh bạch hơn và thông minh hơn.
. Có người từng nhận định rằng: Pháp luật rất đắt đỏ… Doanh nghiệp nhiều lần, như ông biết, trong các hội nghị với Thủ tướng đã phản ánh về việc thực hiện các thủ tục, ĐKKD nhiều khi còn dài hơn thời gian thi công công trình.
+ Mọi quốc gia đều cần phải có luật pháp, nhưng mặt trái của luật pháp là tạo ra thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ kèm theo. Các chi phí ấy có thể kể ra là: chi phí hành chính (chi phí nộp phí lệ phí, chi phí giấy tờ và nhân công thực hiện thủ tục), chi phí đầu tư, chi phí cơ hội và ở một số nơi còn có thể có cả chi phí không chính thức. Trong các chi phí này thì chi phí tuân thủ đôi khi là rất lớn so với chi phí hành chính và tạo ra tác động không cân xứng giữa các doanh nghiệp với qui mô khác nhau.
Bởi vậy, Thủ tướng đã yêu cầu giảm chi phí kinh doanh, chi phí tuân thủ để mới mang lại lợi ích thực sự cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh các định hướng của Trung ương trong các 57, 59, 66, 68 về phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo… đã hết sức rõ ràng.
Bởi vì, cùng với nâng cao năng lực quản lý của nhà nước thông qua các ĐKKD, TTHC thì mặt khác cũng phải quan tâm đến chi phí của doanh nghiệp. Nếu chi phí của doanh nghiệp tăng lên thì hệ quả là sẽ giảm sức cạnh tranh của hàng hóa, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hẹp nguồn tái đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Vì thế, cải cách thể chế để giảm gánh nặng thủ tục và chi phí là điểm hết sức quan trọng không chỉ trong hiện tại mà còn ở tương lai.
. Cuối cùng, theo Thứ trưởng, thách thức lớn nhất trong quá trình thực hiện các mục tiêu cải cách theo tinh thần của “bộ tứ chiến lược” mà Bộ Chính trị đã ban hành là gì? Chúng ta cần làm gì để vượt qua các thách thức ấy để ĐKKD, TTHC đạt được mục tiêu kiến tạo một môi trường kinh doanh minh bạch, an toàn và bình đẳng?
+ Tôi cho rằng: thách thức lớn nhất là làm sao để vừa đảm bảo tốc độ cải cách nhanh chóng, vừa duy trì được chất lượng và tính bền vững của các thay đổi. Vì như chúng ta biết, việc cắt giảm TTHC và ĐKKD đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, như Công điện 56/CĐ-TTg đã chỉ ra, vẫn còn 8 bộ và 11 địa phương chậm tiến độ trong việc công bố, công khai TTHC.
Cùng với đó, nguồn lực và năng lực của cán bộ cũng là điều đáng được quan tâm đặc biệt. Bởi vì quá trình chuyển đổi số và tinh gọn bộ máy đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, nhất là khi tới đây, chính quyền địa phương hai cấp sẽ được triển khai. Thực tế, một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn tư duy “không quản được thì cấm”, gây cản trở cho cải cách.
Những điều này cần một quyết tâm chính trị rất cao để vượt qua.
.Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!
Xây dựng cơ chế quản lý “hiểu - tin - đồng hành” cùng doanh nghiệp
Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam:
Mất 7 tháng chờ đợi vì thủ tục, giấy tờ không rõ ràng
Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị thực sự là chìa khóa vàng mở cửa cho các doanh nghiệp vượt qua những rào cản lâu nay trong môi trường kinh doanh vốn dĩ đã rất khắc nghiệt. Tuy nhiên, từ nhận thức đến hành động cụ thể là một quá trình đòi hỏi tất cả hệ thống chính quyền các cấp cùng vào cuộc.
Thực tế chúng tôi đã gặp ở một địa phương, khi đấu thầu dự án có quyền sử dụng đất, do các nghị định hướng dẫn không rõ ràng nên Sở KH&ĐT yêu cầu doanh nghiệp phải hỏi Bộ KH&ĐT, trực tiếp là Cục Đấu thầu và Vụ Pháp chế. Mất 5 tháng để trả lời nhưng cũng không trả lời được rõ ràng vì văn bản không đi thẳng vào vấn đề, chỉ viện dẫn điều luật và yêu cầu địa phương áp dụng. Sau 5 tháng đó, chúng tôi hỏi Bộ Nông nghiệp và Môi trường thì mới xử lý xong. Như vậy mất 7 tháng và doanh nghiệp phải chờ đợi thủ tục, giấy tờ không rõ ràng.
Chúng tôi kiến nghị cứ 6 tháng một lần, các địa phương gặp mặt với doanh nghiệp đầu tư, sản xuất, kinh doanh trên địa bàn theo từng lĩnh vực để góp ý cho bộ máy công quyền các thủ tục hành chính cần rút kinh nghiệm và cần thay đổi trong công tác quản lý điều hành.
Về đơn giản thủ tục hành chính, hiện nay chúng ta đều đang phấn đấu để tiết giảm 30% TTHC. Chúng tôi cho rằng để đơn giản thủ tục có 2 khâu. Thứ nhất, cần giảm bớt các thủ tục pháp lý trong các bước đầu tư kinh doanh, ví dụ cắt giảm trong các khâu cấp phép đầu tư, điều chỉnh quy hoạch cấp phép xây dựng mà vừa rồi, ngày 29-5, Thủ tướng có ký Công điện 78 gửi các bộ ngành.
Đối với các thủ tục không bỏ được, cần cụ thể cách điều hành, số hóa cách thực hiện, và cần có thời gian cụ thể và địa chỉ chịu trách nhiệm. Riêng với lĩnh vực đầu tư bất động sản, cần có cơ quan thống nhất quy định thủ tục bắt buộc, tối giản với quy trình đầu tư để hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn:
Sẽ chỉ có một cổng dịch vụ công quốc gia
Hiện nay, chúng ta có gần 9.000 ĐKKD, như vậy phải cắt giảm đi 30%, tức là khoảng 2.700 điều kiện kinh doanh.
Chúng ta đặt mục tiêu bảo đảm cắt giảm ít nhất 30% thời gian giải quyết thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ TTHC. Mục tiêu bảo đảm 100% thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp được thực hiện trực tuyến, thông suốt, liền mạch...Những nhiệm vụ này Thủ tướng cũng đã giao cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương.
Đối với việc thực hiện 19 nghị quyết chuyên đề về đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến người dân, hiện nay, chúng ta đã thực hiện được khoảng 91%. Như vậy, cơ bản năm nay chúng ta sẽ thực hiện được các mục tiêu ra.
Đối với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, từ 1-7 tất cả giao diện của Cổng Dịch vụ công của 63 tỉnh, thành phố sẽ đóng cửa và còn một Cổng Dịch vụ công duy nhất, tập trung phục vụ người dân, doanh nghiệp. Từ tháng 2-2026 cổng dịch vụ công các bộ sẽ đóng.
Khi đó Cổng Dịch vụ công Quốc gia là một cửa duy nhất để kết nối liên thông thông suốt với hệ thống thông tin giải quyết TTHC của các bộ ngành, địa phương, để người dân, doanh nghiệp nộp hồ sơ trực tuyến ở bất cứ nơi nào, bất cứ thời gian nào, có thể từ máy tính, máy tính bảng, điện thoại, có kết nối internet là nộp được.
Thông qua Cổng này sẽ chuyển hồ sơ đến các Trung tâm phục vụ hành chính công của các tỉnh, các xã, kể cả bộ phận một cửa của các bộ, để giải quyết cho người dân. Đồng thời người dân cũng có thể đến trực tiếp các trung tâm này nộp hồ sơ để được giải quyết thủ tục chính.
Ông Bùi Mạnh Toàn, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Vietnox:
“Đôi khi chúng tôi phải chứng minh điều hiển nhiên là mình không gian lận”
Trong lĩnh vực nhập khẩu inox – một mặt hàng kim loại có đặc thù kỹ thuật cao và giá trị lớn – TTHC hiện nay vẫn đang là rào cản đáng kể cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong các khâu kiểm định chất lượng và tham vấn giá tại hải quan.
Chúng tôi hoàn toàn hiểu và ủng hộ việc quản lý chặt chẽ để đảm bảo hàng hóa đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên, thực tế đang tồn tại bất cập là mọi lô hàng nhập khẩu inox – dù cùng một chủng loại, cùng một nhà cung cấp quen thuộc, có uy tín nhiều năm – đều bị kiểm tra từng lô. Việc này không những gây tốn kém chi phí lấy mẫu, giám định, mà còn làm phát sinh thời gian chờ kết quả – ảnh hưởng tới tiến độ giao hàng, hiệu quả tài chính và uy tín doanh nghiệp với khách hàng. Trong khi đó, hoàn toàn có thể áp dụng cơ chế phân loại rủi ro doanh nghiệp và đối tác nước ngoài, ví dụ: với những nhà cung cấp đã được kiểm định nhiều lần đạt chuẩn, giao dịch đều đặn trong thời gian dài, thì nên chuyển sang kiểm tra xác suất hoặc miễn kiểm định định kỳ.
Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp đàm phán được mức giá nhập khẩu tốt nhờ mối quan hệ lâu năm hoặc mua vào đúng thời điểm thị trường điều chỉnh giảm. Tuy nhiên, cơ quan hải quan lại cho rằng mức giá đó “thấp hơn thị trường”, và yêu cầu tham vấn, chứng minh – kéo dài cả tháng trời. Doanh nghiệp buộc phải chạy đi chạy lại nhiều lần, nộp đủ loại giấy tờ – từ hợp đồng, email đàm phán, tin nhắn xác nhận giá, tới sao kê ngân hàng, điện chuyển tiền quốc tế – chỉ để chứng minh một điều hiển nhiên: chúng tôi không gian lận giá, mà chỉ đang nỗ lực tối ưu chi phí đầu vào trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.
Vì vậy tôi cho rằng, việc cắt giảm thủ tục hành chính trong ngành nhập khẩu inox nói riêng, trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung không chỉ nằm ở số lượng giấy tờ, mà nằm ở tư duy tiếp cận và ứng xử từ phía cơ quan quản lý. Doanh nghiệp không mong được ưu ái, mà chỉ mong được đối xử công bằng, linh hoạt theo rủi ro thực tế và được tin tưởng nếu làm đúng.
Nếu chúng ta xây dựng được cơ chế quản lý “hiểu - tin - đồng hành” đối với doanh nghiệp tuân thủ tốt, ứng dụng công nghệ trong phân tích dữ liệu giao dịch, và đơn giản hóa quy trình kiểm định – thì doanh nghiệp sẽ có thêm năng lực cạnh tranh, còn cơ quan nhà nước vẫn đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả và không bị sa vào hình thức.