Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng: Tránh tạo gánh nặng thủ tục, chi phí cho lĩnh vực nông – ngư nghiệp
Sáng nay, 8/12, thảo luận tại Tổ 6 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Lạng Sơn, Đồng Nai, TP. Huế) về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT), các ĐBQH thống nhất cao về sự cần thiết ban hành luật nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, góp phần nuôi dưỡng nguồn thu; đồng thời lưu ý việc sửa đổi phải sát thực tiễn, tránh tạo thêm gánh nặng thủ tục và chi phí cho lĩnh vực nông – ngư nghiệp và các đối tượng sản xuất nhỏ lẻ.

Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 6
Làm tiêu chí “sơ chế thông thường”
Thảo luận về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, đại biểu Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) cho rằng, dự thảo Luật lần này đã tiếp cận đúng hướng, trọng tâm vào bốn nhóm nội dung quan trọng gồm: đối tượng không chịu thuế tại Điều 5; thuế suất đối với phế phẩm, phụ phẩm tại Điều 9; nguyên tắc khấu trừ thuế đầu vào tại Điều 14; và việc bỏ một điểm của Điều 15 về thủ tục hoàn thuế. Tuy vậy, nhiều quy định vẫn còn thiếu rõ ràng, chưa đánh giá toàn diện tác động, thậm chí tiềm ẩn nguy cơ tạo khoảng trống pháp lý và gia tăng rủi ro gian lận thuế.
Cụ thể, về Khoản 1 Điều 5 – Đối tượng không chịu thuế GTGT, đại biểu Nguyễn Thị Sửu nêu rõ phạm vi “chưa chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường” hiện chưa được định nghĩa cụ thể, sẽ dễ dẫn tới tranh chấp trong thực tiễn, bởi các hoạt động như sấy, cấp đông, tách vỏ, đóng gói… có hay không được coi là sơ chế? Bên cạnh đó, quy định doanh nghiệp, hợp tác xã mua – bán cho nhau được miễn thuế có thể trở thành “lọc đường” để hợp thức hóa đầu vào không chịu thuế, luân chuyển hàng hóa qua nhiều pháp nhân nhằm trốn thuế ở khâu sau. Việc ủy quyền “theo Bộ trưởng Bộ Tài chính” thiếu nguyên tắc và tiêu chí cũng gây lo ngại về tính ổn định của chính sách thuế.
Đại biểu đề nghị: cần làm rõ tiêu chí “sơ chế thông thường” bằng danh mục cố định, có mô tả kỹ thuật; bổ sung điều kiện chống gian lận đối với giao dịch giữa doanh nghiệp – hợp tác xã; quy định nguyên tắc ủy quyền minh bạch, ổn định tối thiểu 3 năm và không mở rộng thêm diện không chịu thuế.

ĐBQH Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) phát biểu
Về Khoản 5 Điều 9 quy định thuế suất với phế phẩm, phụ phẩm, đại biểu nhận định: quy định hiện hành chưa khả thi, bởi nhiều loại phế phẩm không có mã thuế riêng, phát sinh từ quy trình sản xuất, dễ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp khai thấp giá trị để chuyển doanh thu sang nhóm thuế suất thấp. Dự thảo cũng chưa xử lý trường hợp phế phẩm được tái chế thành sản phẩm khác trước khi bán ra. Do đó, cần quy định rõ: phế phẩm, phụ phẩm thu hồi phải áp dụng thuế suất theo sản phẩm tương ứng về tính chất, công dụng; đồng thời yêu cầu doanh nghiệp lập bảng kê, ghi nhận sản lượng theo định mức và lưu hồ sơ chứng minh việc thu hồi.
Về Khoản 3a Điều 14 liên quan đến khấu trừ thuế đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ không phải tính thuế, đại biểu đánh giá đây là đề xuất mang tính mở, nhưng rủi ro rất cao vì xung đột với bản chất thuế GTGT là chỉ khấu trừ cho hoạt động chịu thuế. Nếu đầu ra không chịu thuế nhưng đầu vào lại được khấu trừ 100% sẽ tạo kẽ hở lớn để gian lận, gây thất thu ngân sách. Dự thảo cũng chưa nêu nguyên tắc áp dụng, không phân loại mục đích sử dụng (sản xuất – tiêu dùng nội bộ – tài sản cố định).
Theo đó, đại biểu Nguyễn Thị Sửu kiến nghị: cần thu hẹp phạm vi, chỉ khấu trừ trong trường hợp hàng hóa không chịu thuế được sử dụng đồng thời cho hoạt động chịu thuế hoặc thuộc lĩnh vực Nhà nước khuyến khích; đồng thời bổ sung điều kiện về chứng từ hợp lệ, chứng minh liên quan đến hoạt động chịu thuế và không áp dụng đối với tài sản tiêu dùng nội bộ. Cần có đánh giá tác động ngân sách trước khi quy định.
Liên quan đến việc bãi bỏ điểm c khoản 9 Điều 15, đại biểu cho rằng, đây là nội dung rất quan trọng liên quan đến hồ sơ hoàn thuế, nhưng dự thảo không nêu rõ lý do bãi bỏ, cũng không có quy định thay thế. Điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ pháp lý, tạo dư địa cho cơ quan thuế tùy nghi trong việc yêu cầu hồ sơ. Đại biểu đề nghị phải ghi rõ lý do bãi bỏ hoặc chuyển nội dung tương đương sang văn bản dưới luật để tránh rủi ro cho doanh nghiệp.
Từ các phân tích trên, đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề xuất bổ sung một số kỹ thuật lập pháp, gồm: đưa vào luật Điều giải thích từ ngữ đối với “sơ chế thông thường”, “phế phẩm”, “phụ phẩm”, “phế liệu”; thống nhất các nguyên tắc ủy quyền cho Bộ Tài chính; bắt buộc đánh giá tác động gian lận và ngân sách đối với Khoản 3a Điều 14; xem xét tích hợp quy định về hóa đơn điện tử để kiểm soát chu trình mua – bán sản phẩm nông nghiệp.
Đồng tình với ý kiến trên, các ĐBQH Tổ 6 đều cho rằng, dự thảo đã đi đúng hướng nhưng cần chỉnh lý sâu hơn nhằm bảo đảm minh bạch chính sách thuế, hạn chế gian lận, phù hợp bản chất của thuế GTGT và không làm tăng gánh nặng thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.
Cần định lượng rõ thu hay miễn thuế để bảo vệ nông dân?
Xuất phát từ thực tế, ĐBQH Huỳnh Thành Chung (Đồng Nai) bày tỏ sự đồng tình về sự cần thiết ban hành Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), song đại biểu nhấn mạnh: khi triển khai, Chính phủ và Bộ Tài chính cần có kế hoạch cụ thể để tháo gỡ những khó khăn phát sinh đối với người dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

ĐBQH Huỳnh Thành Chung (Đồng Nai) phát biểu
Theo đại biểu, thực tế cho thấy hoạt động sản xuất nông nghiệp hiện nay rất phân tán. Người nông dân làm nhỏ lẻ, sản lượng ít, “chỉ vài ba ký cá, vài ba ký tôm, vài mét khối gỗ rừng trồng, hay các loại nông sản thu hoạch từ vườn nhà”. Nếu phải lập hồ sơ, thủ tục qua cơ quan thuế cho những sản lượng nhỏ như vậy thì sẽ tạo ra gánh nặng, khiến nông dân rất khó thực hiện.
Đại biểu cho rằng, vấn đề này từng được nêu ở kỳ trước, nay tiếp tục đặt ra cho Quốc hội, cho thấy đây là bài toán cần có giải pháp rốt ráo, tránh lặp lại điệp khúc “khó nhưng vẫn phải áp dụng”.
Đại biểu Huỳnh Thành Chung cũng chỉ rõ, cần cân nhắc mối quan hệ giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Nguyên tắc của chính sách thuế phải góp phần tăng nguồn thu ngân sách, nhưng cũng phải phù hợp với chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước: miễn, giảm thuế cho nông nghiệp, nông dân.
"Từ Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đến các chính sách hiện nay đều thể hiện tinh thần bảo vệ người nông dân và khuyến khích sản xuất nông nghiệp"- đại biểu nhấn mạnh.
Theo đó, đại biểu đề nghị Chính phủ tính toán kỹ lưỡng tác động của chính sách thuế đối với doanh nghiệp và người sản xuất trong nước. Bộ Tài chính cần đánh giá, định lượng rõ chi phí bộ máy thu thuế trong lĩnh vực nông nghiệp. “Nếu thu thì chi phí tổ chức bộ máy có lớn hơn số thu được hay không? Nếu miễn toàn bộ thì lợi ích quốc gia, lợi ích của nền kinh tế sẽ như thế nào?” – đại biểu đặt vấn đề.
Đại biểu Huỳnh Thành Chung cho rằng, để bảo đảm minh bạch, hiệu quả, nên cân nhắc hai phương án rõ ràng: hoặc đưa toàn bộ đối tượng vào diện chịu thuế, hoặc miễn hoàn toàn. Sau đó, Chính phủ phải báo cáo cụ thể với Quốc hội bằng số liệu định lượng, thay vì chỉ đánh giá định tính.
Bởi, với hơn 70% dân số là nông dân, chính sách thuế cần tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh cho nông nghiệp trong nước. “Miễn hay thu phải vì lợi ích quốc gia, vì lợi của nông dân và doanh nghiệp Việt Nam”, đại biểu nhấn mạnh.











![[INFOGRAPHIC] Bức tranh kinh tế Việt Nam 11 tháng năm 2025](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w250_r3x2/2025_12_08_180_53958219/52004f23ca6a23347a7b.jpg)






















