Dự án Luật Đầu tư sửa đổi: Ưu đãi thế nào cho đúng và trúng?

Theo các đại biểu Quốc hội, Luật Đầu tư sửa đổi cần phân biệt rõ bản chất giữa ưu đãi và hỗ trợ đầu tư cũng như cần kèm điều kiện chuyển giao công nghệ để đạt hiệu quả cao.

Dự án Luật Đầu tư sửa đổi là một trong những dự án luật được thảo luận và lấy ý kiến tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội XV đang diễn ra.

Các quy định về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư được đánh giá là nhóm quy định có ý nghĩa then chốt trong việc định hình môi trường đầu tư của Việt Nam trong giai đoạn mới. Nếu được thiết kế đầy đủ, minh bạch và có tính tiên lượng cao sẽ trở thành đòn bẩy quan trọng để thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao, đồng thời nâng đỡ doanh nghiệp trong nước phát triển.

Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân – Đoàn ĐBQH TP.HCM cho rằng, Điều 14 của Luật đã xác lập hai công cụ chính sách quan trọng: ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, tạo khung pháp lý cho các hình thức khuyến khích doanh nghiệp.

Tuy nhiên, điều khoản này cần được hoàn thiện theo ba hướng, trước hết là phân biệt rõ bản chất giữa ưu đãi và hỗ trợ, bà đề xuất tại phiên thảo luận ở hội trường hôm 27/11.

Theo bà Trân, ưu đãi đầu tư là cơ chế giảm gánh nặng, chủ yếu thông qua thuế, đất đai trong khi hỗ trợ đầu tư là cơ chế tăng năng lực như đào tạo nhân lực, hạ tầng, nghiên cứu phát triển.

Dự thảo hiện nay chưa phân định rạch ròi hai công cụ này, dễ dẫn đến tình trạng các địa phương áp dụng ưu đãi trùng lặp hoặc hỗ trợ thiếu cơ sở. Do đó, cần tách rõ phạm vi áp dụng, tiêu chí và điều kiện của từng công cụ để bảo đảm đồng bộ chính sách.

Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân - Đoàn ĐBQH TP.HCM. Ảnh: quochoi.vn

Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân - Đoàn ĐBQH TP.HCM. Ảnh: quochoi.vn

Bên cạnh đó, cần có giới hạn trần ưu đãi khi thực tế nhiều năm qua cho thấy, Việt Nam chứng kiến tình trạng “đua nhau” ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, dệt may, lắp ráp đơn giản.

Điều này làm xói mòn nguồn thu ngân sách nhưng không tạo giá trị gia tăng tương xứng. Vì vậy, bà đề xuất nên bổ sung quy định về ngưỡng tối đa đối với một số loại ưu đãi, đồng thời yêu cầu đánh giá tác động trước khi trao ưu đãi để bảo đảm kỷ luật tài khóa.

Bà Trân cũng đề xuất, dự án Luật Đầu tư sửa đổi cần bổ sung nguyên tắc gắn ưu đãi, hỗ trợ với hiệu quả thực, cần làm rõ nguyên tắc: “Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư phải gắn với cam kết và kết quả thực hiện của nhà đầu tư; trường hợp không đạt yêu cầu, cơ quan nhà nước có quyền điều chỉnh, thu hồi hoặc yêu cầu bồi hoàn”.

Cùng quan điểm về vấn đề ưu đãi đầu tư, đại biểu Phan Thị Mỹ Dung – Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh, cho rằng, chính sách ưu đãi đầu tư nhiều năm qua chủ yếu tập trung vào thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, miễn, giảm tiền thuê đất, khấu hao nhanh. Đây là các ưu đãi cần thiết nhưng hiện nay không còn tạo lợi thế cạnh tranh, nhất là khi nhiều nước trong khu vực cũng đang sử dụng công cụ tương tự.

Trong khi đó, xu hướng quốc tế chuyển dịch mạnh sang các ưu đãi phi tài chính, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao nhưng Việt Nam lại đang thiếu nhóm này, đơn cử như ưu tiên tiếp cận dữ liệu số, cơ sở dữ liệu công, cơ chế thử nghiệm cho mô hình kinh doanh mới.

“Những công cụ này phù hợp với chiến lược cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn, AI, công nghệ sinh học và chuyển đổi số”, bà Dung đánh giá.

Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung - Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh. Ảnh: quochoi.vn

Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung - Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh. Ảnh: quochoi.vn

Ngoài ra, vị đại biểu này cũng cho rằng, hiện Việt Nam đang thiếu cơ chế ưu đãi theo kết quả thực hiện mà ưu đãi được cấp dựa vào điều kiện đăng ký ban đầu, không gắn với kết quả thực hiện. Điều này dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp FDI kê khai lỗ kéo dài nhưng vẫn hưởng ưu đãi thuế hay tình trạng chuyển giá khó kiểm soát.

Bà đề xuất, dự án Luật Đầu tư sửa đổi cần định hướng rõ ưu đãi phải chọn lọc - hỗ trợ phải thực chất.

Theo đó, nhà đầu tư chỉ được tiếp tục hưởng ưu đãi nếu đạt được các chỉ số như tỷ lệ nội địa hóa, chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D), số lao động chất lượng cao được đào tạo, sản phẩm công nghệ mới được thương mại hóa, năng lượng sạch trong sản xuất.

Đồng thời, cần bổ sung cơ chế hậu kiểm định kỳ hằng năm, thu hồi ưu đãi nếu không đạt chỉ số cam kết cũng như bổ sung quy định cơ chế hậu kiểm bắt buộc, đánh giá hằng năm, thu hồi ưu đãi nếu không đạt cam kết.

Luật Đầu tư sửa đổi cần có tiêu chí rõ ràng trong hỗ trợ đầu tư

Cũng tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Văn Huy – Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên, đánh giá, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 14 theo hướng từ hình thức và đối tượng ưu đãi đầu tư thành ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, đồng thời chỉ quy định những vấn đề mang tính khung, nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Cách thiết kế này phù hợp với định hướng xây dựng luật, tạo dư địa để Chính phủ chủ động xác định ngành nghề ưu đãi theo từng thời kỳ và để các bộ, ngành rà soát, thu hẹp danh mục ưu đãi, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm.

Dự thảo cũng mở rộng đối tượng và đa dạng hóa hình thức ưu đãi hỗ trợ, bổ sung nhiều chính sách phù hợp với xu thế xanh - số - đổi mới sáng tạo, qua đó nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả thực thi.

Tuy nhiên, quy định mới này vẫn còn một số bất cập như tiêu chí xác định đối tượng chưa rõ, phạm vi ủy quyền rộng, nguy cơ chồng chéo chính sách, thiếu cơ chế kiểm soát ưu đãi đặc biệt, danh mục loại trừ chưa hợp lý.

Ngoài hai nhóm đối tượng đã được luật hiện hành quy định, dự thảo còn mở rộng ưu đãi cho dự án có quy mô vốn lớn, dự án sử dụng nhiều lao động và dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia.

Ông Huy cho rằng, các khái niệm “quy mô vốn lớn”, “sử dụng nhiều lao động”, “dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia” chưa có tiêu chí định lượng, dẫn đến khó khăn khi áp dụng và nguy cơ không thống nhất giữa các cơ quan.

Ngoài ra, tiêu chí quy mô vốn lớn có thể tạo thiên lệch ủng hộ dự án FDI, làm giảm cơ hội tiếp cận ưu đãi của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Do đó, ông đề xuất cần giao Chính phủ quy định rõ tiêu chí định lượng về mức vốn tối thiểu, số lượng lao động, mức độ tác động lan tỏa; quy định công khai, cập nhật định kỳ các tiêu chí này và bổ sung cơ chế thẩm định độc lập đối với các dự án được hưởng ưu đãi đặc biệt để bảo đảm minh bạch và kiểm soát rủi ro chính sách.

Ngoài ra, các khái niệm về “chuyển đổi xanh”, “giảm phát thải”, “chuyển đổi số” được quy định trong dự thảo hiện chưa có nội hàm pháp lý thống nhất; chưa có tiêu chí đánh giá dự án đủ điều kiện nhận hỗ trợ; chưa có cơ chế giám sát, kiểm soát việc sử dụng nguồn lực hỗ trợ.

Bên cạnh đó, việc mở rộng các hình thức hỗ trợ có thể tạo áp lực lớn lên ngân sách, làm tăng nguy cơ chính sách không thực thi được.

Do đó, ông đề xuất cần bổ sung khái niệm và tiêu chí xét hỗ trợ cho từng loại hình; quy định yêu cầu dự án được hỗ trợ phải báo cáo kết quả và chịu kiểm toán để bảo đảm minh bạch và hiệu quả; xác định nguồn lực tài chính riêng cho hỗ trợ xanh - số, có thể từ Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ chuyển đổi số quốc gia hoặc các quỹ tài chính ngoài ngân sách.

Mai Anh

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/du-an-luat-dau-tu-sua-doi-uu-dai-the-nao-cho-dung-va-trung-d43199.html